Bản án 17/2018/HS-ST ngày 11/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÔNG CÔNG, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 17/2018/HS-ST NGÀY 11/04/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 4 năm 2018 tại Nhà văn hóa tổ dân phố Bình Minh, phường Bách Quang, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 13/2018/TLST-HS ngày 20 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2018/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

Dương Đức T, sinh ngày 25 tháng 11 năm 1977 tại P, Thái Nguyên; Nơi cư trú: xóm Tr, xã T, huyện P, tỉnh T; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Hải Đ và bà Nguyễn Thị N; có vợ là Nguyễn Thị B và 02 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2006; tiền án: không có, tiền sự: 01, Ngày 27/11/2017 bị Công an huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000đ về hành vi trộm cắp tài sản; bị bắt, tạm giữ từ ngày 14/01/2018 đến nay. (Có mặt)

- Người bào chữa cho bị cáo

Bà Nguyễn Thị D, Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước, tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt)

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan

Chị Nguyễn Thị B, sinh năm: 1982; Trú tại: xóm Tr, xã Th, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt)

- Người làm chứng:

Anh Nguyễn Văn C, sinh năm: 1977; Trú tại: tổ dân phố Đ, phường L, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt)

Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm: 1959; Trú tại: tổ dân phố N, phường L, thành phố S, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt)

Bà Nguyễn Thị Ch, sinh năm: 1962; Trú tại: tổ dân phố Xộp, phường Lương Sơn, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ ngày 14/01/2018, tổ công tác của Công an thành phố Sông Công đang làm nhiệm vụ tại khu vực tổ dân phố Xộp, phường Lương Sơn, thành phố Sông Công phát hiện Dương Đức T điều khiển xe môt tô biển kiểm soát  20G1- 32490 có biểu hiện liên quan đến ma túy nên yêu cầu T dừng lại để kiểm tra. Ngay tại đó, T đã tự giác lấy từ trong túi quần sau bên trái T đang mặc ra giao nộp cho tổ công tác 02 gói nhỏ giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng, T khai đó là heroine mục đích cất giữ để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản phạm tội quả tang, thu giữ toàn bộ số vật chứng và tạm giữ 01 xe mô tô HONDA Wave màu sơn xanh biển kiểm soát 20G1- 32490; 01giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Dương Đức T.

Tiến hành cân xác định trọng lượng 02 gói ma túy thu giữ được của Dương Đức T có tổng trọng lượng 0,138 gam.

Cơ quan CSĐT Công an thành phố Sông Công đã ra quyết định trưng cầu giám định đối số ma túy đã thu giữ của Dương Đức T. Tại bản kết luận giám định số 289/KL-PC 54 ngày 22/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: chất bột màu trắng thu giữ Dương Đức T ngày 14/01/2018 gửi đến giám định là heroine, có khối lượng là 0,138 gam.

Tài liệu điều tra xác định: Do là người nghiện ma túy, nên khoảng 17 giờ ngày 14/01/2018, T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 20G1- 32490 đi từ nhà ở xóm Trại Mới, xã Thượng Đình, huyện Phú Bình đến khu vực nghĩa trang thuộc tổ dân phố Xộp, phường Lương Sơn, thành phố Sông Công mục đích mua ma túy về sử dụng. Tại đây, T đã gặp một người đàn ông không quen biết và đưa cho người đàn ông 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) để mua heroine, người đàn ông nhận tiền rồi đưa cho T 02 gói nhỏ giấy bạc màu vàng. T cất 02 gói ma túy vào túi quần sau bên trái đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà. Khi đi đến khu vực tổ dân phố Xộp, phường Lương Sơn, thành phố Sông Công thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Vật chứng: 01 phong bì niêm phong ký hiệu A1 (chứa 0,1 gam heroine còn lại sau giám định); 01 phong bì ký hiệu A2 bên trong có chứa vỏ bì niêm phong được chuyển bảo quản theo đúng quy định về quản lý vật chứng.

Đối với 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 20G1- 32490, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Dương Đức T, quá trình điều tra xác định đây là tài sản chung của vợ chồng T mua vào tháng 03/2016. Chị Nguyễn Thị Bắc là vợ T không biết T sử dụng xe vào việc đi mua ma túy, do vậy cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho chị Bắc quản lý, sử dụng.

Tại bản cáo trạng số 12/CT-VKS ngày 19/3/2018 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sông Công đã truy tố bị cáo Dương Đức T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 ( sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo T về tội danh và điều luật áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Dương Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt Dương Đức T mức án từ 18 đến 24 tháng tù giam. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Đề nghị xử lý vật chứng và miễn án phí hình sự cho bị cáo theo quy định của pháp luật .

Người bào chữa cho bị cáo trình bày quan điểm: Nội dung truy tố của Viện kiểm sát đối với bị cáo là đúng. Tuy nhiên, ngoài những tình tiết giảm nhẹ mà vị đại diện Viện kiểm sát đã đưa ra, đề nghị áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo. Đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất ở mức đầu khung hình phạt.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã nhận lại tài sản và không có ý kiến gì.

Bị cáo Dương Đức T thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình đúng như Kết luận điều tra và Cáo trạng tuy tố, bị cáo đã nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Bị cáo nói lời sau cùng, xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Sông Công, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sông Công, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và đại diện người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về hành vi của bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo là phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Khoảng 18 giờ ngày 14/01/2018, tại khu vực tổ dân phố Xộp, phường Lương Sơn, thành phố Sông Công, Dương Đức T đang tàng trữ trái phép 02 gói heroine có tổng trọng lượng 0,138 gam (không phẩy một trăm ba mươi tám gam) nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, thì bị bắt quả tang thu giữ vật chứng.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi, đã thực hiện hành tàng trữ chất heroin là một trong những chất ma túy bị Nhà nước cấm lưu hành. Đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về đối với các chất ma túy, trọng lượng ma túy tàng trữ là 0,138g nên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung một số điều năm 2017). Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, nội  dung điều luật như sau:

 “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

.........

c) Heroine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam” …

 [3] Xét các yếu tố về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, thấy rằng:

Về nhân thân: Bị cáo được nuôi ăn học đến hết lớp 06/12 thì nghỉ học ở nhà lao động. Bị cáo không có tiền án nhưng có 01 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ là người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo có bố là người có công với đất nước nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Đối với đề nghị áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo của người bào chữa là không có căn cứ chấp nhận.

Bị cáo là người có hiểu biết xã hội nhất định, được gia đình tạo điều kiện nuôi ăn học nhưng không tu chí. Trong quá trình sinh sống tại địa phương đã có hành vi vi phạm pháp luật và bị xử lý hành chính nhưng không lấy đó làm bài học mà tiếp tục dấn thân vào tệ nạn xã hội là ma túy. Hội đồng xét xử nhận thấy cần áp dụng một mức án nghiêm khắc, buộc cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo tính răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

 [4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[5] Về vật chứng: Số ma túy bị thu giữ là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

 [6] Về phần dân sự: Do người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo thuộc diện hộ nghèo, tại phiên tòa người bào chữa đề nghị được miễn án phí hình sự cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật, HĐXX có căn cứ để chấp nhận; bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

 [8] Về nguồn gốc số heroine, T khai mua ở khu vực nghĩa trang thuộc tổ dân phố Xộp, phường Lương Sơn, thành phố Sông Công của một người đàn ông không quen biết nên Cơ quan cảnh sát điều tra không có cơ sở xác minh, xử lý. Đối với 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 20G1- 32490, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Dương Đức T, xác định là tài sản của T và vợ là chị Bắc. Chị Bắc không biết việc T sử dụng xe để đi mua ma túy nên cơ quan điều tra trả lại cho chị Bắc tục quản lý sử dụng là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 ( sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017 ); Điều 106, 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/ 2016/ NQ – UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Dương Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: bị cáo Dương Đức T 18 ( Mười tám ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/01/2018.

Áp dụng Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Quyết định tạm giam bị cáo Dương Đức T 45 ( Bốn mươi lăm ) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì ký hiệu A1 bên trong có 0,1g mẫu A1 còn lại sau giám định; 01 phong bì niêm phong ký hiệu A2.  ( Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/3/2018 giữa Công an thành phố Sông Công và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Sông Công )

Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Dương Đức T.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2018/HS-ST ngày 11/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:17/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sông Công - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về