Bản án 17/2017/HS-ST ngày 19/09/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC THỌ, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 17/2017/HS-ST NGÀY 19/09/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐKPTGTĐB

Vào hồi 14 giờ ngày 19/9/2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 17/2017/HSST ngày 25/8/2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2017/QĐXXST-HS ngày 01/9/2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Kim T; sinh ngày 29/10/1987 tại xã Y, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh; nơi ĐKNKTT: Thôn T, xã Y, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc : Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Kim H, sinh năm 1953 và bà Lê Thị Y, sinh năm 1961; anh, chị em ruột có 03 người, bị cáo là con thứ hai; có vợ: Nguyễn Hà D, sinh năm 1986 và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

- Người bị hại: Ông Nguyễn Văn T; sinh năm 1935; đã chết.

- Người đại diện hợp pháp cho người bị hại: Ông Nguyễn Văn H; sinh năm 1960; nơi cư trú: Thôn Q, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Kim T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 15 giờ 45 phút ngày 01/10/2016, Nguyễn Kim T, có Giấy phép lái xe mô tô hạng A1, điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Suzuki, biển kiểm soát 37H8-5210 đi trên Quốc lộ 8A (QL8A) theo hướng từ huyện Đức Thọ xuống thị xã Hồng Lĩnh. Khi đi đến đoạn đường Km 4 + 500 thuộc địa phận thôn Quang Chiêm, xã Đức Thịnh, huyện Đức Thọ, thì nhìn thấy ông Nguyễn Văn T đang điều khiển xe đạp đi cùng chiều phía trước. Khi xe mô tô cách xe đạp khoảng 15m thì T phát hiện ông Thành bắt đầu chuyển hướng xe đạp sang trái để đi về nhà nhưng không có tín hiệu chuyển hướng. Thấy vậy, T lúng túng điều khiển xe mô tô tránh sang trái để vượt xe đạp của ông T mà không thực hiện báo hiệu theo quy định và khi khoảng cách giữa hai xe còn khoảng 03m thì T lại điều khiển xe sang phải để vượt, nhưng không tránh kịp nên cánh ướm chắn gió và gác chân phía trước bên phải xe mô tô đã va vào phía sau xe đạp, làm cả hai người cùng ngã xuống đường. Sau khi tai nạn xảy ra, ông T bị thương nặng phải đi cấp cứu, điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh Nghệ An, đến ngày 09/3/2017 thì tử vong. Còn Nguyễn Kim T cũng bị thương phải cấp cứu, điều trị tại bệnh viện Hữu Nghị đa khoa tỉnh Nghệ An; Bệnh viện tâm thần tỉnh Nghệ An và Bệnh viện Việt Đức Hà Nội, đến ngày 25/4/2017 thì  sức khỏe ổn định và ra viện.

Tại bản kết luận giám định pháp y tâm thần số 269/KLGĐ ngày 01/8/2017 của Viện pháp y tâm thần Trung ương đối với bị cáo Nguyễn Kim T xác định: Tại thời điểm phạm tội, Nguyễn Kim T không bị bệnh tâm thần và đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Tại thời điểm giám định, Nguyễn Kim T mắc bệnh rối loạn cảm xúc không ổn định thực tổn. Bị cáo đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Tại biên bản khám nghiệm tử thi nạn nhân Nguyễn Văn T ngày 09/3/2017 xác định: Nạn nhân tử vong do chấn thương sọ não.

* Tang vật thu giữ trong vụ án: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Viva biển kiểm soát 37H8-5210, 01 Giấy phép lái xe số Z930052 hạng A1của Nguyễn Kim T(Giấy phép lái xe hiện đang lưu giữ tại hồ sơ vụ án), 01 chiếc xe đạp sơn màu xám, nhãn hiệu Asama City.

* Về trách nhiệm dân sự: Sau khi xảy ra tai nạn, gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường xong về phần dân sự cho đại diện gia đình người bị hại số tiền 70.000.000 đồng. Hiện tại gia đình người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại bản Cáo trạng số 17/Ctr-KSĐT ngày 22 tháng 8 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Thọ truy tố bị cáo Nguyễn Kim T về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo Khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị  Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 202, Điểm b, Điểm p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46, Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999; Khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015, Điểm h Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 2015, Điểm x Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo Nguyễn Kim T mức án từ 12 tháng đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 24 tháng đến 36 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các chứng cứ, ý kiến Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;

XÉT THẤY

Tại phiên tòa , bị cáo Nguyễn Kim T khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai bị cáo tại hồ sơ, lời khai của đại diện gia đình người bị hại, lời khai người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện, biên bản khám nghiệm tử thi và các vật chứng, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định bị cáo Nguyễn  Kim T là người gây tai nạn làm cho ông Nguyễn Văn T tử vong. Hành vi phạm tội của bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Thọ truy tố về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo Khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự là có cơ sở, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Như chúng ta đã biết tai nạn giao thông ngày càng diễn ra phức tạp, những vụ tai nạn giao thông xảy đồng thời xâm hại đến tính mạng, sức khỏe và gây thiệt hại về tài sản những người bị tai nạn. Theo khoản 1, 2 Điều 14 Luật giao thông đường bộ quy định “Xe xin vượt phải có báo hiệu bằng còi và chỉ được vượt khi không có chướng ngại vật phía trước, không có xe chạy ngược chiều trong đoạn đường định vượt, xe chạy trước không có tín hiệu vượt xe khác và đã tránh về phía bên phải”. Bị cáo Nguyễn Kim T đã được học và được cấp Giấy phép lái xe hạng A1 nhưng không chấp hành các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, không chú ý quan sát, không làm chủ tốc độ; bị cáo biết rằng ông T sẽ rẽ sang trái nhưng vẫn cố tình tránh sang trái để vượt lên, trước khi vượt xe bị cáo không báo hiệu bằng còi cho ông T biết, vượt xe khi chưa có đủ điều kiện an toàn nên đã gây ra vụ tai nạn giao thông dẫn đến hậu quả ông T bị tử vong. Nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông phần lớn là do lỗi của bị cáo Nguyễn Kim T.

Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội vì vậy cần phải đưa ra xét xử và lên mức án tương xứng nhằm tuyên truyền, giáo dục phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn, hối cải; đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại; đại diện gia đình người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bản thân bị cáo cũng bị thương nặng và hiện nay bị mắc bệnh rối loạn cảm xúc không ổn định thực tổn; người bị hại cũng có một phần lỗi nên cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ nêu trên quy định tại Điểm b, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999. Mặt khác, bố bị cáo là thương binh 4/4 nên bị cáo thuộc trường hợp con của người có công với cách mạng; căn cứ vào khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015, Điểm h Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 2015, cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm x Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo và việc không bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù không gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Do đó, Hội đồng xét xử thấy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà chỉ cần giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú theo dõi, giám sát, giáo dục theo quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999 là phù hợp.

* Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị cáo, đại diện gia đình người bị hại không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử miễn xét.

* Về biện pháp tư pháp:

- 01 chiếc xe mô tô, nhãn hiệu Suzuki Viva, sơn màu xanh, biển kiểm soát 37H8 - 5210 của bị cáo, quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô là của bị cáo mua lại của anh Trần Khắc L, trú tại phường T, thành phố V, tỉnh Nghệ An nhưng
chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu. Chiếc xe mô tô đó là tài sản hợp pháp của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo.

- 01 Giấy phép lái xe số Z930052  hạng A1 của Nguyễn Kim T (Giấy phép lái xe hiện đang lưu giữ tại hồ sơ vụ án) nên trả lại cho bị cáo.

- 01 chiếc xe đạp nhãn hiệu Asama City là của ông Nguyễn Văn T, xe bị hư hỏng không còn khả năng sử dụng và gia đình bị hại không nhận lại nên tiêu hủy.

* Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Kim T phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

Áp dụng Khoản 1 Điều 202, điểm b, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46, Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm x Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Nguyễn Kim T 12 (Mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 (Hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trong thời gian thử thách giao bị cáo Nguyễn Kim T cho Ủy ban nhân dân xã Y, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh giám sát, giáo dục. Nếu trong thời gian thử thách bị cáo Thọ thay đổi nơi cư trú thì áp dụng theo khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

2. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điểm đ Khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự 2003:

- Trả lại cho bị cáo 01 chiếc xe mô tô, nhãn hiệu Suzuki Viva, sơn màu xanh, biển kiểm soát 37H8 - 5210, số khung BE42FVN12825, số máy E418VN128245 và 01 Giấy phép lái xe số Z930052 hạng A1 (Giấy phép lái xe hiện đang lưu giữ tại hồ sơ vụ án).

- Tiêu hủy 01 chiếc xe đạp sơn màu xám, nhãn hiệu Asama City.

Đặc điểm của các vật chứng được thể hiện trong biên bản giao nhận vật chứng  ngày 25/8/2017 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Đức Thọ và Chi cục Thi hành án huyện Đức Thọ lưu tại hồ sơ vụ án.

3 . Án phí sơ thẩm: Áp dụng Điều 98, khoản  1, 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 3; khoản 1 Điều 6; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Kim T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Kim T, đại diện gia đình người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 19/9/2017.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

344
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2017/HS-ST ngày 19/09/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:17/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Thọ - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về