Bản án 1719/2018/HNGĐ-ST ngày 26/11/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1719/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/11/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 26 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 08/2016/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 01 năm 2016 về việc “Ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 5259/2018/QĐST-HNGĐ ngày 07/11/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 9414/2018/QĐST-HNGĐ ngày 14/11/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lâm Thị Mỹ H, sinh năm 1973 Quốc tịch: Việt Nam.

Trú tại: phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Lim Kian K, sinh năm 1959 Quốc tịch: Ma-lai-xi-a.

Trú tại: B103 Blok B Indah Apartment Jalan PJU 10/1C Damansara Damai SG Buloh 47830 Petaling Jaya Selangor Darul Ehsan, Malaysia.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 16/12/2015 và các bản tự khai ngày 20/8/2018, bản tự khai ngày 20/10/2018, nguyên đơn bà Lâm Thị Mỹ H trình bày:

Bà và ông Lim Kian K đăng ký kết hôn vào ngày 23/10/2012 tại Malaysia theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số KC05 0158285, có giấy xác nhận ghi vào sổ hộ tích đã đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài số 234/STP-XN ngày 29/12/2015 của Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh.

Sau khi kết hôn, bà và ông Lim Kian K sinh sống tại Malaysia. Trong quá trình sống chung, bà và ông Lim Kian K nảy sinh nhiều mâu thuẫn nghiêm trọng do khác biệt về quan điểm sống và phong tục, tập quán. Hai bên đã cố gắng hòa giải nhưng không thành. Đến ngày 01/5/2013, bà trở về Việt Nam sinh sống và làm việc. Từ đó đến nay bà và ông Lim Kian K không gặp nhau và cũng không liên lạc với nhau nữa.

Do khoảng cách về địa lý, bất đồng ngôn ngữ, không có điều kiện gần gũi, chăm sóc nhau dẫn đến tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, bà làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Lim Kian K, bà và ông Lim Kian K không có con chung, không có tài sản chung và không có nợ chung.

Bị đơn ông Lim Kian K đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng không đến Tòa án làm việc và cung cấp lời khai.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Nguyên đơn bà Lâm Thị Mỹ H có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn ông Lim Kian K vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

+ Về hình thức: Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng các quy định pháp luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý đến khi xét xử. Tại phiên tòa sơ thẩm cho đến trước khi nghị án, Hội đồng xét xử sơ thẩm đã tiến hành phiên tòa đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lâm Thị Mỹ H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, sau khi nghe Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm, sau khi nghị án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1. Về thẩm quyền giải quyết:

Bà Lâm Thị Mỹ H là công dân Việt Nam. Ông Lim Kian K công dân Ma- lai-xi-a, đang cư trú tại Ma-lai-xi-a. Do đó, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 122, khoản 2 Điều 123 và khoản 1 Điều 127 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì yêu cầu khởi kiện của bà Lâm Thị Mỹ H thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng:

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà Lâm Thị Mỹ H có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Lâm Thị Mỹ H.

Bà Lâm Thị Mỹ H xin ly hôn với ông Lim Kian K là người nước ngoài đang cư trú ở nước ngoài nhưng không thể thực hiện việc cung cấp đúng địa chỉ mới của ông Lim Kian K theo yêu cầu của Tòa án nên bà Lâm Thị Mỹ H đã yêu cầu Tòa án thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án và Cổng thông tin điện tử của cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài về việc ly hôn giữa bà H và ông Lim Kian K. Ngày 20/8/2018, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có Văn bản số 6482/TB-TA thông báo cho bị đơn về việc giải quyết ly hôn và đề nghị Đại sứ quán Việt Nam tại Ma-lai-xi-a và Bộ phận quản lý thông tin điện tử Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đăng tải bản dịch Thông báo này trên cổng thông tin điện tử của mình. Ngày 27/8/2018 Bộ phận quản lý thông tin điện tử Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xác nhận đã đăng tải Thông báo số 6482/TB-TA trên cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đến ngày 02/11/2018, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhận được văn bản trả lời của Đại sứ quán Việt Nam tại Ma-lai-xi-a với nội dung Đại sứ quán Việt Nam tại Ma-lai- xi-a đã đăng tải bản dịch Thông báo số 6482/TB-TA ngày 20/8/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trên cổng thông tin điện tử từ ngày 05/9/2018 đến ngày 15/10/2018.

Kể từ ngày đăng thông báo đến ngày xét xử đã hết thời hạn 01 tháng. Vì vậy, theo quy định tại điểm c khoản 6 Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông Lim Kian K.

3. Về yêu cầu khởi kiện của bà Lâm Thị Mỹ H:

Căn cứ Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số KC05 0158285 do cơ quan có thẩm quyền tại Ma-lai-xi-a cấp ngày 23/10/2012, đã ghi vào sổ hộ tịch việc kết hôn theo Giấy xác nhận ghi vào sổ hộ tích đã đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài số 234/STP-XN ngày 29/12/2015 của Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh thì quan hệ hôn nhân giữa bà Lâm Thị Mỹ H và ông Lim Kian K được xác định là hôn nhân hợp pháp.

Theo đơn khởi kiện, bà Lâm Thị Mỹ H trình bày: Sau khi kết hôn, bà và ông Lim Kian K sinh sống tại Malaysia. Trong quá trình sống chung, bà và ông Lim Kian K nảy sinh nhiều mâu thuẫn nghiêm trọng do khác biệt về quan điểm sống, ngôn ngữ và phong tục, tập quán. Hai bên đã cố gắng hòa giải nhưng không kết quả. Đến ngày 01/5/2013, bà trở về Việt Nam sinh sống và làm việc.

Từ đó đến nay bà và ông Lim Kian K không gặp nhau và cũng không liên lạc với nhau nữa. Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Lim Kian K.

Qua yêu cầu của bà Lâm Thị Mỹ H, Hội đồng xét xử nhận thấy: Mâu thuẫn chính giữa bà Lâm Thị Mỹ H và ông Lim Kian K là do bất đồng quan điểm sống, ngôn ngữ, phong tục, tập quán. Từ năm 2013, bà H trở về Việt Nam sinh sống và sau khi bà H trở về Việt Nam hai bên không liên lạc từ đó cho đến nay. Việc ông Lim Kian K không liên lạc với bà H chứng tỏ ông Lim Kian K không có thiện chí hàn gắn. Bà Lâm Thị Mỹ H cũng xác định không còn tình cảm với ông Lim Kian K. Xét hai bên đã không còn tình cảm, khả năng hàn gắn không còn, mục đích hôn nhân không đạt, căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì yêu cầu xin ly hôn của bà Lâm Thị Mỹ H là có cơ sở nên chấp nhận.

Về con chung: Bà Lâm Thị Mỹ H khai không có.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Lâm Thị Mỹ H khai không có.

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Do bà Lâm Thị Mỹ H là nguyên đơn xin ly hôn nên bà Lâm Thị Mỹ H phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; khoản 8 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 207, điểm a khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 273, điểm d khoản 1 Điều 469, điểm c khoản 6 Điều 477, khoản 1 và khoản 3 Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 1 Điều 122, khoản 2 Điều 123, khoản 1 Điều 127 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Áp dụng khoản 1 Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; khoản 8 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lâm Thị Mỹ H:

1. Về quan hệ vợ chồng: Bà Lâm Thị Mỹ H được ly hôn với ông Lim Kian K.

2. Về con chung: Bà Lâm Thị Mỹ H khai không có.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Lâm Thị Mỹ H khai không có.

4. Về án phí: Bà Lâm Thị Mỹ H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 200.000 đ (hai trăm nghìn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm đã nộp là 200.000 đồng theo biên lai thu tiền số AG/2010/09863 ngày 06/01/2016 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh; bà Lâm Thị Mỹ H đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bà Lâm Thị Mỹ H được quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án sơ thẩm hoặc kể từ ngày niêm yết bản án. Ông Lim Kian K được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1719/2018/HNGĐ-ST ngày 26/11/2018 về ly hôn

Số hiệu:1719/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về