Bản án 170/2021/HS-ST ngày 14/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 170/2021/HS-ST NGÀY 14/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 06 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 172/2021/TLST - HS ngày 13 tháng 05 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 122/2021/QĐXXST - HS ngày 16 tháng 04 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đ. N. T, sinh năm 1971; nơi sinh: Thái Bình; hộ khẩu thường trú: phường T. L, quận H. B. T, thành phố H. N; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Tự do; con ông Đặng Đức Thịnh và bà Lê Thị Hiền; gia đình có 06 anh chị em, bị cáo là con thứ tư; vợ bị cáo là Đặng Thị Lan và có 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2008. Nhân thân bị cáo: Không tiền án, không tiền sự.

Bắt quả tang ngày 29/12/2020, đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Tạm giam” tại Trại tạm giam số 2,Công an thành phố Hà Nội. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội truy tố: Hồi 16 giờ 30 phút ngày 29/12/2020, tại khu vực trước nhà số 6 ngõ 104, phố Nguyễn An Ninh, phường Tương Mai, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội tổ công tác công an phường Tương Mai bắt quả tang Đ. N. T có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ trong túi quần phía trước bên trái của Thạch 01 túi nilong màu trắng kích thước (02x02) cm bên trong chứa tinh thể màu trắng. Tại chỗ, Thạch khai nhận tinh thể màu trắng trên là ma túy đá Thạch mua để sử dụng cho bản thân. Ngoài ra, tổ công tác còn thu giữ của Thạch 01 điện thoại di động Iphone 6 màu trắng, 01 điện thoại Iphone 11 Promax màu trắng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản, thu giữ niêm phong tang vật và đưa Thạch về trụ sở để làm rõ.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Hoàng Mai, Đ. N. T khai nhận: Khoảng 15 giờ 00 ngày 29/12/2020, Đ. N. T đi bộ một mình đến khu vực cầu Khỉ - Tương Mai – Hoàng Mai – Hà Nội với mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây, Thạch gặp và mua của một nam thanh niên không quen biết 01 gói ma túy đá với giá 400.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Thạch cất gói ma túy vào túi quần phía trước bên trái rồi đi tìm nơi để sử dụng. Khi Thạch đi đến khu vực trước cửa nhà số 6 ngõ 104, phố Nguyễn An Ninh, phường Tương Mai, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội thì bị Công an kiểm tra, bắt và thu giữ tang vật như đã nêu trên.

Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Hoàng Mai tiến hành dẫn giải Đặng Ngọc Thach đã xác định được vị trí tại khu vực cầu Khỉ - Tương Mai – Hoàng Mai – Hà Nội là nơi Thạch đã mua ma túy nhưng không xác định được người đã bán ma túy cho Thạch.

Cùng ngày, cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Hoàng Mai đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Đ. N. T tại địa chỉ số 33 ngõ 325/45 Kim Ngưu, Thanh Lương, Hai Bà Trưng, Hà Nội theo Lệnh khám xét khẩn cấp số 39 nhưng không phát hiện, thu giữ gì liên quan đến vụ án.

Ngày 29/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Hoàng Mai đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 65 đối tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon màu trắng thu giữ của Đ. N. T. Bản kết luận giám định số 219/KLGĐ- PC09 ngày 05/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong kích thước (02x02) cm là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,421 gam.

Tại bản cáo trạng số 111/CT-VKS-HM, ngày 01/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội, truy tố bị cáo Đ. N. T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[2] Tại phiên tòa: Bị cáo Đ. N. T thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và thừa nhận Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội. Bị cáo khẳng định mới sử dụng ma túy được vài ngày, chưa nghiện thì bị bắt, trước đây chưa từng sử dụng ma túy, gia đình không biết bị cáo sử dụng ma túy. Bị cáo xin được hưởng mức án nhẹ nhất. Đối với đối 01 điện thoại di động Iphone 6 màu trắng và 01 điện thoại di động Iphone 11 công an thu giữ của bị cáo nhưng bị cáo không dùng vào việc phạm tội. Bị cáo xin được trả lại.

Kiểm sát viên nắm quyền công tố tại phiên tòa, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Thạch như bản cáo trạng. Sau khi phân tích, đánh giá tích chất, mức độ hành vi phạm tội; nhân thân của bị cáo, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, v khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt: bị cáo Đ. N. T từ 12 đến 16 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; trả lại bị cáo 01 điện thoại di động Iphone 6 màu trắng và 01 điện thoại di động Iphone 11 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Phần tranh luận tại phiên tòa, bị cáo Đ. N. T thừa nhận Kiểm sát viên luận tội và kết luận bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng, nên không tranh luận; bị cáo chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên về hướng giải quyết toàn bộ vụ án.

[3] Lời nói sau cùng của bị cáo: “Bị cáo biết hành vi của mình là sai trái và có tội. Bị cáo rất ăn năn, hối cải và luôn thành khẩn khai báo từ khi xảy ra vụ án; bị cáo xin lỗi vợi con, xin lỗi gia đình và xin lỗi Hội đồng xét xử... Bản thân bị cáo khi còn là sỹ quan quận đội đã có thành tích xuất sắc trong công tác; gia đình bị cáo có công với cách mạng, với Nhà nước. Vì vậy, bị cáo kính xin Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất".

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, các quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hoàng Mai, của Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật, không có khiếu nại, tố cáo. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện phù hợp với các quy định của pháp luật.

[2] Xét hành vi nguy hiểm của bị cáo bị truy tố:

Tại các Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản thu giữ, niêm phong và mở niêm phong tang vật; Quyết định trưng cầu giám định xác định khối lượng, loại ma túy của Cơ quan Cảnh sát điều - Công an quận Hoàng Mai; Kết luận giám định số 219/KLGĐ-PC09 ngày 05/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, cùng các tài liệu, chứng cứ khác thể hiện:

Hồi 16 giờ 30 phút, ngày 29/12/2020, tại khu vực trước nhà số 6 ngõ 104, phố Nguyễn An Ninh, phường Tương Mai, quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội, bị cáo Đ. N. T đã tàng trữ trái phép 0,421 gam ma túy, loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an bắt quả tang cùng tang vật.

Hành vi của bị cáo Đ. N. T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo Đ. N. T sinh năm 1971 là người đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo về tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ pháp lý.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Xét hành vi phạm tội của bị cáo có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn. Xác định hành vi nguy hiểm của bị cáo là tội phạm nghiêm trọng. Hành vi đó đã xâm phạm chính sách của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý; gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người; đồng thời có thể là nguyên nhân dẫn đến những hành vi vi phạm pháp luật khác; gây ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh trật tự xã hội. Vậy, cần phải xử lý bị cáo nghiêm bằng pháp luật hình sự và áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn, tương xứng đối với hành vi phạm tội của bị cáo.

Nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

- Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải; thời gian công tác trong quân đội bị cáo có thành tích xuất sắc được cấp có thẩm quyền tăng thưởng “Huân chương chiến sỹ vẻ vang”, danh hiệu “chiến sỹ giỏi”... nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s, v khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Thêm nữa, gia đình bị cáo có công với cách mạng, với Nhà nước. Do đó, khi quyết định hình phạt cần áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để giảm nhẹ thêm một phần hình phạt cho bị cáo.

- Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Đối với tội phạm về ma túy, ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Hội đồng xét xử, xét bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng lớn nên không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung. Vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[4] Về áp dụng Biên pháp tư pháp: Khi bắt quả tang bị cáo có hành vi tàng trữ trái pháp chất ma túy, Công an thu giữ ma túy của bị cáo với khối lượng: 0,421 gam, loại Methamphetamine, khi giải quyết vụ án cần căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 để xử lý. Do đó, Hội đồng xét xử nhận định 0,421 gam, loại Methamphetamine là vật nhà nước cấm cá nhận tàng trữ, lưu hành nên phải tịch thu tiêu hủy.

Quá trình điều tra, Công an còn thu giữ của bị cáo 01 điện thoại di động Iphone 6 màu trắng và 01 điện thoại di động Iphone 11. Đây là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội. Xét, có thể trả lại bị cáo nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[5] Các vấn đề khác:

Đối với nam thanh niên đã bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra Công an quận Hoàng Mai không xác định được danh tính, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.

[6] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm đ khoản 1 Điều 32; Điều 38 và khoản 1, 3 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào Điều 106, 136, 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xử phạt bị cáo Đ. N. T 12 (mười hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ khi bắt quả tang bị cáo ngày 29 tháng 12 năm 2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Biện pháp tư pháp:

2.1. Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bao niêm phong, bên trong có ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,421 gam.

2.2. Trả lại bị cáo Đ. N. T 01 điện thoại di động Iphone 6 màu trắng, số Imei: 358572071884932 và 01 điện thoại di động Iphone 11 Promax màu trắng, số Imei: 353894103386214 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Toàn bộ vật chứng nêu trên, hiện đang lưu giữ tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội, theo Biên bản và Phiếu nhập vật chứng số NK2021-00170, ngày 01/4/2021.

3. Về án phí: Bị cáo Đ. N. T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Đ. N. T có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 170/2021/HS-ST ngày 14/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:170/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về