Bản án 170/2020/HS-ST ngày 18/11/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH P

BẢN ÁN 170/2020/HS-ST NGÀY 18/11/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 11 năm 2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố V, tỉnh P xét xử sơ thẩm vụ án hìnhsự thụ lý số: 151/2020/TLST ngày 27/10/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 659/2020/QĐXXST-HS, ngày 04/11/2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan Văn T - Giới tính: Nam;Tên gọi khác: không; Sinh ngày 12/7/2001 tại V, tỉnh V; Đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn Đ, xã L, huyện V, tỉnh V; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 07/12;Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố đẻ: Phan Văn P, sinh năm 1978; Mẹ đẻ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1983; Gia đình bị cáo có 03 anh, em, bị cáo là con lớn nhất; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ từ ngày 12/8/2020. Ngày 17/8/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công anthành phố V khởi tố bị cáo và ra Lệnh tạm giam đối với Phan Văn T. Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh P.

(Có mặt tại phiên tòa).

*Bị hại: Anh Lê Diên T, sinh năm 1988; Địa chỉ: khu 6, xã T, thành phố V, tỉnh P.

(Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào sáng ngày 11/8/2020, anh Lê Diên T, sinh năm 1988, đăng ký hộ khẩu thường trú: khu 6, xã T, thành phố V, tỉnh P- là chủ cửa hàng điện thoại Thanh T địa chỉ khu 6, xã T, thành phố V, tỉnh P, sử dụng tài khoản Facebook của vợ là “Thanh Ha Thanh” và tài khoản Facebook “Bình Minh” của mình đăng bài bán điện thoại Iphone 6S Plus, màu xám, dung lượng 16GB, có số imei: 353337071793896.

Đến khoảng 11 giờ 11/8/2020, Phan Văn T, sinh năm 2001, đăng ký hộ khẩu thường trú: xã L, huyện V, tỉnh V, đang ở nhà nghỉ An Thịnh tại xã B, huyện V, tỉnh V đăng nhập vào tài khoản Facebook “Tung con” của mình nhắn tin vào tài khoản “Thanh Ha Thanh” mục đích lừa hỏi mua điện thoại của T để đem đi bán lấy tiền. Quá Trình nhắn tin, T hỏi mua điện thoại Iphone 6S Plus nói trên của anh T với giá thỏa thuận là 3.100.000 đồng (ba triệu một trăm nghìn đồng) kèm theo điện thoại có 01 bộ sạc và tai nghe Iphone màu trắng. Anh T đồng ý bán cho T, cách thức giao dịch là T chuyển khoản số tiền mua điện thoại đến tài khoản tiền gửi ngân hàng của anh T và T sẽ giao điện thoại, địa điểm giao hàng là tại vũng xuyến nơi giao nhau giữa đường Quốc lộ 2 và đường lên cầu Hạc Trì thuộc phường B, thành phố V, tỉnh P. Sau khi đã thỏa thuận xong, T sửa nội dung tin nhắn giao dịch với ngân hàng BIDV có sẵn trong điện thoại di động của T với nội dung đã chuyển thành C số tiền 3.100.000 đồng từ ngân hàng BIDV đến tài khoản ngân hàng mà anh T cung cấp.

Đến khoảng 12 giờ ngày 11/8/2020, T gọi điện cho anh Đỗ Tiến C, sinh năm 1978, đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Thôn Mới, xã B, huyện V, tỉnh V, đang làm nghề lái xe taxi đến đãn T ở nhà nghỉ An Thịnh để đưa T đi V, đến gần khu vực vũng xuyến, T nhờ anh C đi lấy hộ điện thoại còn Tựng xuống xe đứng đợi. Khi anh C đi ra vũng xuyến lấy điện thoại, T đã chụp ảnh tin nhắn giao dịch chuyển tiền mà T đã chỉnh sửa gửi cho anh T. Sau khi xem ảnh T gửi, anh T không kiểm tra lại, nghĩ T đã chuyển tiền nên đã giao chiếc điện thoại cho anh C. Anh C nhận chiếc điện thoại Iphone 6S Plus, màu xám cùng sạc và tai nghe quay lại đãn và đưa cho T, rồi chở T về nhà nghỉ An Thịnh.

Đến khoảng 15 giờ ngày 11/8/2020, anh T kiểm tra tài khoản ngân hàng phát hiện chưa nhận được tiền T chuyển khoản nên nhắn tin vào tài khoản “T Con”. T nói do lỗi mạng ngân hàng nên hẹn anh T 17 giờ cùng ngày sẽ lên Vgửi trả tiền mặt, sau đã T để điện thoại ở chế độ máy bay và không trả lời tin nhắn của anh T. Sau đã T tiếp tục dùng tài khoản Facebook “T Con” lên mạng để tỡm kiếm tài khoản kinh doanh mua bán điện thoại. T phát hiện tài khoản Facebook “Bình Minh” đăng bán chiếc điện thoại Iphone 6S Plus, màu xám, 16 GB. T không biết tài khoản “Bình Minh” và “Thanh Ha Thanh” đều là của anh Lê Diên T nên nhắn tin vào tài khoản “Bình Minh” để hỏi mua chiếc điện thoại trên. Lúc này anh T nghi ngờ T lừa mình nên nhắn tin đồng ý bán chiếc điện thoại với giá 3.000.000 đồng, thực chất chiếc điện thoại này anh T đã bán cho Tựng lỳc trước.

T và anh T thỏa thuận phương thức giao dịch như cũ, địa điểm giao dịch gần UBND phường B, thành phố V, tỉnh P. T tiếp tục nhờ anh C đến UBND phường B để nhận điện thoại. Khi anh C lái xe taxi đến lấy điện thoại hộ T, anh T hô hoán mọi người giữ anh C lại và đưa đến Cơ quan Công anTrình báo Tại cơ quan điều tra, anh C khai nhận: Anh C làm nghề lái xe taxi, vào ngày 10/8/2020, T đã lấy số điện thoại của anh C từ nhà nghỉ An Thịnh và gọi xe đi lại. Ngày 11/8/2020, T tiếp tục gọi cho anh C chở đi V để đổi điện thoại cho bạn. Anh C không biết việc và còng không được T kể việc T thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản đối với anh T.

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công anthành phố V đã tiến hành triệu tập Phan Văn T để lấy lời khai. Tại cơ quan điều tra, Phan Văn T khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như đã nêu trên. Đồng thời thu giữ của T:

- 01 điện thoại di động IPHONE 6S PLUS, màu xám, dung lượng 16 GB, số IMEI: 353337071793896.

- 01 điện thoại di động OPPO F3, màu vàng, có số imei1: 863966036271219, số imei2: 863966036271201.

- 01 bộ sạc và tai nghe IPHONE màu trắng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố V đã yêu cầu định giá tài sản. Tại Bản kết luận định giá tài sản phục vụ tố tụng hình sự số 113/2020/HĐĐG-KL ngày 12/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản - Ủy ban nhân dân thành phố V kết luận:

- Đối với 01 điện thoại di động nhón hiệu IPHONE 6S PLUS, màu xám, số IMEIS: 353337071793896, đã qua sử dụng, có giá là: 7.000.000 đồng.

- Đối với 01 bộ sạc điện thoại IPHONE màu trắng, đã qua sử dụng, có giá là: 400.000 đồng.

- Đối với 01 tai nghe điện thoại IPHONE màu trắng, đã qua sử dụng, có giá: 300.000 đồng.

Tổng cộng: 7.000.000đ + 400.000đ + 300.000đ = 7.700.000 đồng.” Đối với Đỗ Tiến C người đã lái xe taxi chở T đi và nhận hộ T điện thoại, anh C không biết hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của T nên không đề cập xử lý.

Ngoài việc thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của anh T ngày 11/8/2020 tại địa bàn thành phố V, Phan Văn T còn tự khai nhận trước đã T đã thực hiện 03 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại địa bàn huyện V, tỉnh V. Ngày 29/9/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện V đã ra Quyết định khởi tố vụ án, Quyết định khởi tố bị can đối với Phan Văn T. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công anthành phố Vđã chuyển toàn bộ tài liệu và vật chứng liên quan đến các vụ lừa đảo T thực hiện tại địa bàn huyện V, tỉnh V đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V thụ lý điều tra theo thẩm quyền.

Về nguyên nhân, điều kiện, mục đích phạm tội: Do không có việc làm ổn định, cần tiền để chi tiêu vào mục đích cá nhân nên T đã thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Về vật chứng và đồ vật tài sản bị tạm giữ:

- 01 điện thoại di động IPHONE 6S PLUS, màu xám, dung lượng 16 GB, số IMEI: 353337071793896, 01 bộ sạc và tai nghe IPHONE màu trắng, đây là tài sản của anh Lê Diên T bị T lừa đảo chiếm đoạt ngày 11/8/2020. Ngày 05/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố V đã trả lại cho chủ sở hữu là anh T, anh T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì.

- 01 điện thoại di động OPPO F3, màu vàng, có số imei1:

863966036271219, số imei2: 863966036271201, đây là tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án đã được Công an huyện V khởi tố ngày 29/9/2020. Ngày 07/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố V đã bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện V để giải quyết theo thẩm quyền.

Tại bản cáo trạng số: 162/CT-VKS-VT ngày 26 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, tỉnh P truy tố bị cáo Phan Văn T về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P xác định:

Đi với hành vi phạm tội thứ 2 hồi 15 giờ ngày 11/8/2020 của bị cáo, do bị cáo chưa chiếm đoạt được tài sản đã bị phỏt hiện, chiếc điện thoại T có ý định chiếm đoạt ở lần thứ 2 bị cáo đã chiếm đoạt được ở lần đầu. Bị cáo thực hiện tội phạm nhưng chưa thực hiện được đến cùng Vì nguyờn nhõn ngoài ý muốn. Vì vậy, Tựng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt. Lần thứ 2, T và bị hại thoả thuận mua chiếc điện thoại với giá 3.000.000đ. Như vậy, xác định giá trị tài sản mà bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với lần phạm tội thứ 2 là 3.000.000đ.

Như vậy, tại phiên tòa VKSND nhân dân thành phố V đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 266 Bộ luật tố tụng hình sự: Rút phần truy tố về hành vi của bị cáo sau khi xác định giá trị tài sản mà bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự. Vì vậy, số tiền bị cáo chiếm đoạt trong lần phạm tội thứ 2 xác định trách nhiệm hình sự là: 3.000.000đ Bị cáo Phan Văn T phải chịu trách nhiệm hình sự với số tiền chiếm đoạt cả hai lần phạm tội là: 10.700.000đ.

Đề nghị:

Tuyên bố: Bị cáo Phan Văn T phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Về hình phạt chớnh: Áp dụng Khoản 1 Điều 174, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điểm g Khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 15 BLHS. Đề nghị xử phạt bị cáo Phan Văn T từ 09 tháng đến 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 12/8/2020.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về trách nhiệm dân sự: anh Lê Diên T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b Khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Xác nhận ngày 05/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố V đã trả lại 01 điện thoại di động IPHONE 6S PLUS, màu xám, dung lượng 16 GB, số IMEI: 353337071793896, 01 bộ sạc và tai nghe IPHONE màu trắng cho chủ sở hữu là anh Lê Diên T.

+ Xác nhận ngày 07/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố V đã bàn giao 01 điện thoại di động OPPO F3, màu vàng, có số imei1: 863966036271219, số imei2: 863966036271201 cho Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện V để giải quyết theo thẩm quyền.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong quá Trình điều tra và tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không cóý kiến gì khỏc về quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dụng vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên trong quá Trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, Trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá Trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không cóý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đã, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi cấu thành tội phạm của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai bị hại và vật chứng còng như phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện như sau:

Khong 11 giờ ngày 11/8/2020, Phan Văn T đã thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt 01 điện thoại di động nhón hiệu IPHONE 6S Plus, dung lượng 16GB, 01 bộ sạc và tai nghe trị trá 7.700.000 đồng của anh Lê Diên T, có đăng ký hộ khẩu thường trú tại khu 6, xã T, thành phố V, tỉnh P, giao bán trên tài khoản Facebook “Thanh Ha Thanh”.

Tiếp đến khoảng 15 giờ cùng ngày 11/8/2020, Phan Văn T tiếp tục thực hiện hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt 01 điện thoại di động nhón hiệu IPHONE 6S Plus, dung lượng 16GB, 01 bộ sạc và tai nghe được giao bán trên tài khoản Facebook “Bình Minh” (mà T không biết đã chính là chiếc điện thoại của anh Lê Diên T mà T đã lừa đảo chiếm đoạt được) thì bị anh T phát hiện, Trình báo Cơ quan Công an bắt giữ T và thu giữ vật chứng.

Như vậy, trị giá tài sản T chiếm đoạt và nhằm chiếm đoạt của anh T là 10.700.000 đồng.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V rút một phần cáo trạng truy tố đối với giá trị tài sản mà bị cáo nhằm chiếm đoạt lần thứ 2. Mặc dự ý thức chủ quan của T hướng đến là chiếm đoạt chiếc điện thoại nhưng do T không biết chiếc điện thoại mà T chiếm đoạt lần thứ 2 chính là chiếc điện thoại mà T đã chiếm đoạt trước đã, Vì vậy lần thứ 2 Tựng chưa chiếm đoạt được tài sản. Giá trị giao dịch mà T và bị hại thoả thuận mua bán chiếc điện thoại ở lần thứ 2 là 3.000.000 đồng. Nên đối với lần phạm tội này xác định giá trị tài sản mà T chiếm đoạt là 3.000.000 đồng là phù hợp với quy định của pháp luật.

Hành vi của Phan Văn T không những đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an xã hội. Vì vậy cần phải được xử lý nghiờm bằng pháp luật hình sự. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự.

Khon 1 Điều 174, quy định:

" 1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Xét hành vi phạm tội của bị cáo thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo không những đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác, được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an xã hội. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiờm minh trước pháp luật.

Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng:

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa từng có tiền án tiền sự Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội hai lần trở lên, được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá Trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Ngoài ra Tựng còn thực hiện 03 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại địa bàn huyện V, tỉnh V. Ngày 29/9/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công anhuyện Vđã ra Quyết định khởi tố vụ án, Quyết định khởi tố bị can đối với Phan Văn T.

Từ việc xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Xét thấy: Tuy bị cáo có nhân thân tốt, nhưng thời điểm gần đây bị cáo đã liờn tiếp thực hiện hành vi lừa đảo, Vì vậy cần áp dụng hình phạt phạt tù giam đối với bị cáo T, để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tính răn đe, để giáo dục bị cáo thành một người C dân tốt, có ích cho gia đình, xã hội.

Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là anh Lê Diên T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo về bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết và cần xác nhận biên bản trao trả tài sản cho bị hại do cơ quan Công an lập lưu trong hồ sơ là hợp pháp.

[5]. Về xử lý vật chứng:

Xác nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công anthành phố V đã trả anh Lê Diên T 01 điện thoại di động IPHONE 6S PLUS, màu xám, dung lượng 16 GB, số IMEI: 353337071793896, 01 bộ sạc và tai nghe IPHONE màu trắng có biên bản lưu trong hồ sơ là hợp pháp.

Xác nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công anthành phố V đã bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện V 01 điện thoại di động OPPO F3, màu vàng, có số imei1: 863966036271219, số imei2: 863966036271201, đây là tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án đã được Công an huyện V khởi tố ngày 29/9/2020 có biên bản lưu trong hồ sơ là hợp pháp. (Theo biên bản giao nhận tài liệu ngày 07/10/2020 giữ Đội điều tra Công an thành phố V, tỉnh P và Công an huyện V, tỉnh V) Đối với Đỗ Tiến C người đã lái xe taxi chở T đi và nhận hộ T điện thoại, anh C không biết hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của T nên không đề cập xử lý là phù hợp quy định của pháp luật.

[6] Về án phíhình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: khoản 1 Điều 174, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; Điểm b khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Tuyên bố: Bị cáo Phan Văn T phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Phan Văn T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo là ngày 12/8/2020.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo Phan Văn T.

* Về xử lý vật chứng:

Xác nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố V đã trả anh Lê Diên T 01 điện thoại di động IPHONE 6S PLUS, màu xám, dung lượng 16 GB, số IMEI: 353337071793896, 01 bộ sạc và tai nghe IPHONE màu trắng có biên bản lưu trong hồ sơ là hợp pháp.

Xác nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố V đã bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công anhuyện V01 điện thoại di động OPPO F3, màu vàng, có số imei1: 863966036271219, số imei2: 863966036271201, đây là tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án đã được Công an huyện V khởi tố ngày 29/9/2020.

(Theo biên bản giao nhận tài liệu ngày 07/10/2020 giữ Đội điều tra Công an thành phố V, tỉnh P và Công an huyện V, tỉnh V) * Về án phí: Buộc bị cáo Phan Văn T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật, để đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh P xét xử theo thủ tục phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 170/2020/HS-ST ngày 18/11/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:170/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về