TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 170/2020/HS-PT NGÀY 20/07/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 155/2020/HSPT ngày 18/6/2020 đối với bị cáo Lê Anh D cùng 03 bị cáo khác về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, do có kháng cáo của các bị cáo Lê Anh D, Hoàng Minh T, Cao Xuân P và Lê Văn H đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 113/2020/HS-ST ngày 11/05/2020 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Các bị cáo có kháng cáo:
1. Họ và tên: Lê Anh D, sinh ngày 26/10/1993, tại tỉnh Đắk Nông; nơi cư trú: Thôn C, xã B, huyện K, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 10/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Tiến V, sinh năm 1957 và con bà Duy Khánh T, sinh năm 1960, hiện trú tại xã B, huyện K, tỉnh Đắk Nông; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị T, sinh năm 2000 và có 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/11/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Hoàng Minh T; sinh ngày 02/01/1995; tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 11/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Hoàng Hữu T, sinh năm 1958 và con bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1962, hiện trú tại: Đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/11/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
3. Họ và tên: Cao Xuân P, sinh ngày 09/4/1994; tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Thôn X, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Cao B, sinh năm 1952 và con bà Huỳnh Thị N (đã chết), hiện trú tại xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/11/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
4. Họ và tên: Lê Văn H; sinh ngày 19/01/1995; tại tỉnh Đắk Nông; nơi cư trú: Thôn B, xã B, huyện K, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Văn L, sinh năm 1970 và con bà Đỗ Thị T, sinh năm 1968, hiện trú tại xã B, huyện K, tỉnh Đắk Nông; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/11/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lê Anh D là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy loại khay và thuốc lắc, do không có việc làm nên D nảy sinh ý định mua chất ma túy về vừa sử dụng vừa bán lại cho người khác. Vào đầu tháng 10/2019, qua mối quan hệ quen biết ngoài xã hội, D liên lạc với một người nam giới tên Nguyễn Thanh D1 (không rõ nhân thân, lai lịch) ở quận G, thành phố Hồ Chí Minh mua 50 viên ma túy thuốc lắc hình tròn màu cam và 10 gam ma túy khay với số tiền 20.000.000 đồng. Sau đó, D đến khách sạn T, tại địa chỉ: Đường C, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk thuê phòng số 02, vừa làm nơi ở, vừa làm nơi cất giấu ma túy. D chia ma túy khay ra thành nhiều gói nhỏ (còn gọi là chấm) bán với giá từ 1.000.000 đồng đến 1.100.000 đồng/chấm, còn thuốc lắc bán với giá từ 300.000 đồng đến 350.000 đồng/viên.
Trong thời gian này, D rủ Lê Văn H đến ở cùng và phụ giúp D bán ma túy. Khi có người đến mua ma túy thì D trực tiếp mang xuống trước cổng khách sạn bán hoặc đưa cho Hoàng mang xuống bán. Cũng trong thời gian này, D quen biết Hoàng Minh T là người chạy xe taxi thường xuyên chở D nên biết D có bán ma túy loại khay, thuốc lắc, T nảy sinh ý định mua ma túy bán lại cho người khác kiếm lời. T rủ thêm Cao Xuân P cũng hành nghề chạy xe taxi tham gia giúp T mang ma túy đi giao cho khách và được T trả công từ 100.000 đồng đến 400.000 đồng/lần.
Vào khoảng 20 giờ ngày 31/10/2019, T đến khách sạn T gặp D mua 10 viên ma túy thuốc lắc màu hồng cam và 05 chấm khay với tổng số tiền là 8.000.000 đồng rồi đi đến quán karaoke B trên đường K thuộc phường C, thành phố B vừa sử dụng vừa bán cho người khác hết 08 viên thuốc lắc, còn lại 02 viên thuốc lắc và 05 chấm khay thì T cất giữ trong người.
Đến 19 giờ ngày 02/11/2019, T sử dụng số điện thoại 09718428xx gọi cho D vào số 08442222xx mua thêm 10 viên thuốc lắc và hai chấm khay với số tiền 5.000.000 đồng; D hẹn T đến khách sạn T và Lê Văn H lấy ma túy đang cất giấu trong hộp phòng cháy chữa cháy treo trên tường đối diện phòng số 02 mang xuống giao cho T. Sau đó, T điều khiển xe ô tô hiệu Huyndai i10, biển số 47A – 184.36 mang theo số ma túy vừa mua cùng 02 viên thuốc lắc và 05 chấm khay còn lại đến quan karaoke B trên đường K sử dụng hết 01 viên thuốc lắc, 01 chấm khay và bán 02 viên thuốc lắc cho khách đang chơi ở quán với số tiền 700.000 đồng. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, có một người nam giới (không rõ nhân thân, lai lịch) sử dụng số điện thoại 09456107xx gọi cho T mua 06 viên thuốc lắc và một người phụ nữ (không rõ nhân thân, lai lịch) sử dụng số điện thoại 09484057xx gọi cho T mua 03 viên thuốc lắc và 02 chấm khay. T gọi điện thoại cho D mua tiếp 10 viên thuốc lắc và nhờ chia thành 02 gói, một gói chứa 06 viên; một gói chứa 04 viên. Sau khi liên lạc với D xong, T gọi điện thoại cho Cao Xuân P vào số 09477021xx nói P đến nhà nghỉ T gặp D lấy ma túy. P điều khiển xe ô tô hiệu KIA Carens, biển số 47A – 166.51 đi lấy ma túy rồi đến quán karaoke B gặp T. Tại đây, T lấy gói nylon chứa 04 viên thuốc lắc cất giấu vào trong người và lấy ra một gói nylon khác chứa 03 viên thuốc lắc cùng 02 chấm khay đưa cho P nói mang đến đường V, phường X bán lấy số tiền 3.500.000 đồng, còn 06 viên thuốc lắc mang đến giao ở hẻm đường M, phường T lấy số tiền 2.200.000 đồng. Sau khi P mang ma túy đi bán thì T tiếp tục quay vào quán karaoke B nghe nhạc và lấy 01 viên thuốc lắc ra sử dụng.
Đến khoảng 00 giờ 10’ ngày 03/11/2019, khi T đang đứng trước quán karaoke B thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk phát hiện, bắt quả tang, tạm giữ trong người T số ma túy gồm: 07 viên thuốc lắc màu cam, 02 viên thuốc lắc màu hồng; 04 gói nyon chứa ma túy khay, 02 gói nylon chứa chất bột màu vàng đang cất giấu trong người. Khi P giao ma túy xong quay lại quán karaoke B để đưa tiền cho T thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ trong người P số tiền 5.700.000 đồng. Căn cứ lời khai của Hoàng Minh T và Cao Xuân P, Cơ quan điều tra tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Lê Anh D và Lê Văn H, tạm giữ của D số ma túy gồm: 01 gói nylon chứa chất bột màu vàng; 2,5 viên thuốc lắc màu cam và 02 gói ma túy khay được D cất giấu ở khách sạn T. Tất cả các chất ma túy thu giữ đã được niêm phong theo đúng quy định của pháp luật.
Tại bản kết luận giám định số 903/GĐMT-PC09 ngày 05/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận các chất ma túy thu giữ của T: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng đựng trong 04 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma tuý, có tổng khối lượng 1,3002gam, loại Ketamine; 07 viên nén màu cam được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 2,4552 gam, loại MDMA; 02 viên nén màu hồng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,6968gam, loại MDMA; Chất bột màu vàng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,6953 gam, loại MDMA.
Tại bản kết luận giám định số 904/GĐMT-PC09 ngày 05/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận các chất ma túy thu giữ của D: Phong bì M1: Chất bột màu vàng đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,0112gam, loại MDMA; ½ viên nén màu cam đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2065 gam, loại MDMA. Phong bì M2: 02 viên nén màu cam đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,6829 gam, loại MDMA; Chất rắn dạng tinh thể màu trắng đựng trong 02 gói nylon màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy có tổng khối lượng 0,6254 gam, loại Ketamine.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 113/2020/HSST ngày 11/5/2020 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Lê Anh D, Lê Văn H, Hoàng Minh T và Cao Xuân P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm b, c, p khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Lê Anh D 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 03/11/2019.
Xử phạt bị cáo Lê Văn H 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 11/11/2019.
- Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Hoàng Minh T 11 (mười một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 03/11/2019.
Xử phạt bị cáo Cao Xuân P 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 03/11/2019.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 13, 15, 18, 20 tháng 5 năm 2020, các bị cáo Cao Xuân P, Lê Anh D, Hoàng Minh T, Lê Văn H lần lượt có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và đã khai nhận toàn bộ hành vi mà các bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung bản án hình sự sơ thẩm đã được tóm tắt nêu trên.
Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo và cho rằng cấp sơ thẩm đã truy tố và xét xử các bị cáo Lê Anh D, Hoàng Minh T, Cao Xuân P và Lê Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm truy tố, xét xử các bị cáo Lê Anh D và Lê Văn H theo điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là không chính xác và bất lợi cho các bị cáo. Xét mức hình phạt 12 năm tù đối với bị cáo Lê Anh D, 09 năm 06 tháng tù đối với bị cáo Lê Anh D mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với các bị cáo là có phần nghiêm khắc. Xét mức hình phạt 11 năm 06 tháng tù đối với bị cáo Hoàng Minh T, 09 năm 06 tháng tù đối với bị cáo Cao Xuân P mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với các bị cáo là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Anh D, Lê Văn H; không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Hoàng Minh T, Cao Xuân P, sửa một phần bản án sơ thẩm.
- Áp dụng điểm b, p khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Lê Anh D từ 11 năm 06 tháng tù đến 11 năm 09 tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;
Xử phạt bị cáo Lê Văn H từ 09 năm tù đến 09 năm 03 tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Hoàng Minh T 11 năm 06 tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;
Xử phạt bị cáo Cao Xuân P 09 năm 06 tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Các bị cáo không tranh luận, bào chữa gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai của các bị cáo Lê Anh D, Lê Văn H, Hoàng Minh T và Cao Xuân P tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở pháp lý kết luận: Khoảng đầu tháng 10/2019, thông qua mối quan hệ xã hội, Lê Anh D đã mua 50 viên ma tuý thuốc lắc và 10 gam ma tuý khay của một người tên D1 (không rõ nhân thân, lai lịch), sau đó, D đến khách sạn T tại địa chỉ đường C, phường L, thành phố B thuê phòng cất giấu và rủ thêm Lê Văn H đến ở mục đích phụ giúp D bán ma tuý. Từ ngày 31/10/2019 đến ngày 03/11/2019, tại khu vực cổng khách sạn T, Hoàng Minh T đã có hành vi mua ma tuý của Lê Anh D 03 lần (trong đó 01 lần D bán trực tiếp cho T, 01 lần D nhờ Lê Văn H bán cho T, 01 lần T nhờ Cao Xuân P đến gặp D để lấy ma tuý dùm); sau đó, T đem bán cho người khác 02 lần và đưa ma tuý cho Cao Xuân P đi bán lại cho 02 người khác 01 lần. Đến khoảng 0 giờ 10 phút ngày 03/11/2019, khi T đang chơi tại quán Karaoke B trên đường K, phường C, thành phố B thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk phát hiện bắt quả tang, thu giữ của T 3,8473 gam chất ma tuý loại MDMA và 1,3002 gam chất ma túy loại Ketamine. Cơ quan điều tra tiến hành khám xét tại phòng số 02 khách sạn T thu giữ của Lê Anh D và Lê Văn H số ma túy còn lại chưa bán là 0,9006 gam chất ma tuý loại MDMA và 0,6254 gam chất ma túy loại Ketamine.
Hành vi của các bị cáo Lê Anh D, Lê Văn H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại các điểm b, p khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Hành vi của các bị cáo Hoàng Minh T và Cao Xuân P đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại các điểm b, c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Bị cáo Lê Anh D chỉ bán ma túy cho bị cáo Hoàng Minh T với sự giúp sức của bị cáo Lê Văn H và bị cáo Cao Xuân P không mua ma túy từ bị cáo Lê Anh D mà chỉ lấy ma túy dùm cho bị cáo Hoàng Minh T. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm truy tố, xét xử các bị cáo Lê Anh D, Lê Văn H với tình tiết tăng nặng định khung hình phạt “đối với 02 người trở lên” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là không đúng và bất lợi cho các bị cáo.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Lê Anh D, Lê Văn H, Hoàng Minh T và Cao Xuân P:
Xét mức hình phạt 12 năm tù đối với bị cáo Lê Anh D, 09 năm 06 tháng tù đối với bị cáo Lê Văn H mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Mặc dù, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng định khung hình phạt “đối với 02 người trở lên” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) không đúng nhưng mức hình phạt đối với các bị cáo là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra. Bởi lẽ, bị cáo D là người nghiện ma túy, rủ rê bị cáo Hoàng giúp sức cho bị cáo; các bị cáo nhiều lần bán lại ma tuý cho bị cáo Hoàng Minh T để kiếm lời.
Xét mức hình phạt 11 năm 06 tháng tù đối với bị cáo Hoàng Minh T, 09 năm 06 tháng tù đối với bị cáo Cao Xuân P mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với các bị cáo là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra. Bị cáo T cũng là người nghiện ma túy, là người rủ rê bị cáo P đi giao ma túy cho đối tượng nghiện khác; các bị cáo đã nhiều lần bán ma túy và P được T trả tiền công từ 100.000 đồng đến 400.000 đồng/lần bán ma túy.
Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo đều không cung cấp tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ chấp nhận đơn kháng cáo của các bị cáo, mà cần giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm, có như vậy mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.
[3] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo Lê Anh D, Lê Văn H, Hoàng Minh T và Cao Xuân P phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Anh D, Lê Văn H, Hoàng Minh T và Cao Xuân P – Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 113/2020/HSST ngày 11/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.
[2] Điều luật áp dụng và mức hình phạt:
- Áp dụng điểm b, p khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Xử phạt bị cáo Lê Anh D 12 (mười hai) năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 03/11/2019.
Xử phạt bị cáo Lê Văn H 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 11/11/2019.
- Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt bị cáo Hoàng Minh T 11 (mười một) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 03/11/2019.
Xử phạt bị cáo Cao Xuân P 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 03/11/2019.
[3] Về án phí: Các bị cáo Lê Anh D, Lê Văn H, Hoàng Minh T và Cao Xuân P, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 170/2020/HS-PT ngày 20/07/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 170/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về