TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 169/2021/HS-ST NGÀY 04/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 04.6.2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 36/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 160/ 2021/QĐXXST-HS ngày 23.4.2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Đào Bá D, sinh năm 1983, tại Hà Nội.
Nơi ĐKHKTT: Đội 1 Vĩnh Xương Thượng, xã M, huyện M, TP.Hà Nội; Nơi ở: Phòng số 1, số nhà 14 ngách 27 ngõ 14 đường M, phường M, quận N,TP.Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nam; Con ông Đào Duy L và bà Lã Thị K; Vợ là Lê Thị B (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2005; Tiền án: Bản án số 131/2013/HSST ngày 23.4.2013 của TAND quận Hai Bà Trưng xử phạt 08 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma tuý, ra trại ngày 29.8.2019; Tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 145/HSST ngày 14.8.2007 của TAND quận Cầu Giấy xử phạt 28 tháng tù cho hưởng án treo về tội Cố ý gây thương tích. Bản án số 220/HSST ngày 11.12.2007 của TAND quận Thanh Xuân xử phạt 08 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, tổng hợp hình phạt với Bản án số 145/HSST ngày 14.8.2007 buộc chấp hành 36 tháng tù giam. Bản án số 201/HSST ngày 21.6.2010 của TAND quận Hà Đông xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Bị bắt, tạm giam từ ngày 28.4.2020. Hiện đang tạm giam tại Trại giam số 01 – Công an thành phố Hà Nội. Có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Gia – Luật sư Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội, công tác tại Văn phòng luật sư Hội tụ trí tuệ. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 16 giờ 45 phút ngày 28.4.2020, tổ công tác Công an quận N, TP.Hà Nội bắt quả tang Đào Bá D đang bán ma tuý cho Nguyễn T tại phòng trọ số 1, nhà số 14 ngách 27 ngõ 14 đường M, phường M, quận N. Quá trình bắt giữ phát hiện thu giữ trên mặt sàn nhà có 01 túi nylon bên trong chứa tinh thể màu trắng, 01 điện thoại di động OPPO F9 có số thuê Bo 0978.247.635 và 1.000.000 đồng (một triệu đồng). Tại chỗ, Đào Bá D khai 01 túi nylon bên trong chứa tinh thể màu trắng là ma tuý của D đang bán cho Thành.
Khám xét khẩn cấp nơi ở của Đào Bá D tại phòng số 1 thu giữ:
- 01 túi nylon chứa các cục bột màu trắng và 01 túi nylon chứa tinh thể màu trắng (thu giữ tại giá nhựa để đồ cạnh cửa ra vào).
- 01 túi nylon chứa tinh thể màu trắng (thu giữ tại thùng giấy đặt tại gầm cầu thang).
- 01 túi nylon chứa cục bột màu trắng và 01 túi nylon chứa tinh thể màu trắng (thu giữ tại mặt bàn gác lửng).
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus không gắn sim.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia1202 gắn sim số 0325.446.351.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime gắn sim số 0974.942.068.
Tại bản kết luận giám định số 3323/KLGĐ-PC09 ngày 05.5.2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:
- Tang vật thu giữ khi bắt quả tang gồm: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 4,519gam.
- Tang vật thu giữ khi khám xét gồm:
+ Các cục bột màu trắng bên trong 01 túi nilông là ma túy loại Heroine, khối lượng 18,681gam.
+Tinh thể màu trắng trong 01 túi nilông là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 80,793gam.
+Tinh thể màu trắng thu giữ trong 01 túi nilông là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 4,785gam.
+ Cục bột màu trắng trong túi nilông là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,067gam.
+Tinh thể màu trắng trong 01 túi nilông là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,174gam.
Tại cơ quan điều tra Đào Bá D khai: Khoảng 13 giờ ngày 28.4.2020, D đang ở tại phòng trọ số 1 thì C “Thức” (là bạn xã hội không rõ lý lịch) gọi điện cho D hẹn gặp hỏi việc mua bán ma túy. D đi một mình đến khu vực Đ, phường M gặp C và T (là bạn của C). Tại đây, C nhờ D mua 2 túi ma túy đá, mỗi túi 05 gam với giá 6.000.000đồng, C hứa trả công D 500.000 đồng. Lúc này, T có lấy tiền ra cho D nhìn, D bảo C đưa tiền để đi mua ma túy nhưng C nói với D phải đưa ma túy mới trả tiền nên D quay về phòng trọ.
Khi về phòng trọ, D nói với người đàn ông tên B là người D mới quen, đang ở cùng phòng trọ với D được một ngày về việc C nhờ mua ma tuý, B bảo D cứ lấy tiền của C đi, sau đó B đi ra khỏi phòng trọ. Khoảng 10 phút sau, C điện thoại cho D bảo T đang mang tiền đến phòng trọ của D để lấy ma túy, D chỉ đường cho T đến phòng trọ, cùng lúc này B đi về và để trên nắp thùng xốp 01 gói giấy, B nói với D là “ở trong đây này” rồi đi ra ngoài. D hiểu trong gói giấy có 02 gói ma túy “đá” để bán cho T. Khi T đến, D chỉ cho T gói giấy chứa ma túy “đá”, T mở ra thì trong đó có 2 gói ma tuý “đá” và hỏi D là “chỗ này sáu triệu à”, D bảo là “sáu triệu rưỡi”, đúng lúc này thì cơ quan Công an kiểm tra, bắt giữ và thu giữ tang vật đối với D và T.
Đào Bá D khai nhận 01 túi nylon chứa ma túy đá thu giữ trên mặt sàn nhà khi bắt quả tang và 01 túi ma túy đá thu giữ trong thùng giấy gầm cầu thang khám xét là 02 gói ma túy D đang chuẩn bị bán cho T, quá trình bắt giữ thì 01 túi ma tuý bị văng vào trong thùng giấy ở gầm cầu thang. Toàn bộ số ma túy còn lại thu giữ trong phòng trọ D khai không biết là của ai.
Tại Công an quận N, Nguyễn T khai phù hợp với lời khai của Đào Bá D về việc thông qua đối tượng tên C, khoảng 16 giờ ngày 28.4.2020, T hẹn gặp D và đặt mua 02 gói ma tuý “đá”, mỗi gói 05 gam với giá 6.500.000 đồng để sử dụng. Sau đó T đến phòng trọ của D để lấy ma tuý thì gặp người đàn ông tên B mở cổng cho T, T có quen biết với B trước đó. T đi vào phòng trọ gặp D và nói “đồ đâu, tiền đây rồi”, Khi gặp T, D mở 02 túi nilông bên trong có ma tuý “đá” cho T xem và đòi 6.500.000 đồng, khi T chuẩn bị trả tiền cho D thì bị công an bắt quả tang.
Sau khi bắt quả tang và ghi lời khai T, tổ công tác Công an quận N dẫn giải T đến khu vực đường Đ, phường M, N, TP.Hà Nội để rà soát đối tượng tên C “thức” và địa điểm trao đổi mua bán ma tuý thì Thành bỏ trốn. Cơ quan điều tra xác minh tại chính quyền địa phương xác nhận tại địa chỉ trên không có đối tượng tên Thành có nhân thân, lý lịch như Thành đã khai. Đào Bá D khai chỉ biết đối tượng tên Thành, không biết họ tên đầy đủ và địa chỉ cụ thể.
Kết quả thu giữ chi tiết các số điện thoại của Đào Bá D xác định từ ngày 17.4.2020 đến ngày 28.4.2020, D liên lạc với các số điện thoại của C 15 cuộc, trong ngày 28.4.2020, D và C liên lạc với nhau 12 cuộc, vị trí cột sóng của D đều ở phường M, quận N.
Kiểm tra số điện thoại 0974.942.068 của D có tin nhắn đến từ số 0868.737.068 với nội dung: “tôi Hưởng đây sao không nghe vậy, có nhà không tôi xuống lấy 1 hộp 5”, D khai không biết tin nhắn trên của ai và không giải thích được nội dung tin nhắn. Xác minh số điện thoại 0868.737.068 nhắn tin mua ma tuý của D, tên chủ thuê Bo là Cao Tiến Dũng trú tại huyện M, Thành phố Hà Nội nhưng vắng mặt tại địa phương nên chưa triệu tập ghi lời khai được.
Về đối tượng tên C “thức”, qua xác minh cho thấy tên đầy đủ là Dương Văn C. Hiện C đang thi hành án tại Trại tạm giam số 2 – Công an thành phố Hà Nội về tội Cướp giật tài sản. C khai quen biết với D nhưng không biết và không liên quan đến việc mua bán trái phép chất ma tuý của D. C chỉ sử dụng số 0393.545.935, ngoài ra không sử dụng số điện thoại nào khác.
Xác minh số điện thoại 0927.908.500 và 0396.464.444 mà Đào Bá D khai của đối tượng C “thức” kết quả cho thấy:
- Chủ thuê Bo số 0927.908.500 mang tên Trần Hiện, sinh ngày 17.6.1995, số CMND 012454838 cấp ngày 19.6.2019, xác minh số chứng minh nhân dân trên mang tên Nguyễn Thị Chỉ. Bà Chỉ khai không sử dụng số điện thoại 0927.908.500, không biết và không liên quan đến việc mua bán ma tuý của D và C.
- Chủ thuê Bo số 0396.464.444 mang tên Vũ Hoàng Quân. Anh Quân khai không sử dụng số điện thoại trên, không biết và không liên quan đến việc mua bán ma tuý của D và C.
Bà Lã Thị Khay là mẹ đẻ của D khai phòng trọ số 01 nhà số 14 ngách 27 ngõ 14 M do bà Khay thuê và sinh sống cùng D để bán hàng nước ở Mỹ Đình. Từ ngày 28.3.2020, do dịch covid phải nghỉ bán hàng nên bà Khay về quê ở, chỉ có mình D sinh sống tại căn phòng đó. Bà Khay không biết và không liên quan đến số ma tuý đã thu giữ tại phòng trọ.
Về đối tượng tên B, kết quả điều tra xác định tên đầy đủ là Bùi Văn B. Hiện Bùi Văn B vắng mặt tại địa phương nên chưa triệu tập, ghi lời khai được.
Đối với các tài liệu như trên chưa đủ căn cứ để xác định Bùi Văn B, Dương Văn C, Nguyễn T đồng phạm mua bán ma tuý với Đào Bá D nên ngày 22.12.2020 Cơ quan điều tra đã ra Quyết định tách tài liệu liên quan các đối tượng Bùi Văn B, Dương Văn C, Nguyễn T và 3 số điện thoại: 0927.908.500, 0396.464.444, 0868.737.068 để điều tra, làm rõ sau.
Tại Cáo trạng số 38/CT-VKS-P1 ngày 01.02.2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội truy tố Đào Bá D về tội Mua bán trái phép chất ma tuý theo Điểm h Khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, bị cáo trình bày:
Bị cáo chỉ liên quan đến việc mua bán hai gói ma túy mà Cơ quan điều tra thu giữ bán cho Thành và số ma túy này là của B, bị cáo có liên quan vì đã môi giới hưởng 500.000đ. Số ma túy còn lại không phải của bị cáo, của ai thì bị cáo không biết. Đề nghị HĐXX cho giám định dấu vân tay trên các gói ma túy này để xác định xem ma túy của ai, yêu cầu triệu tập B và C đến phiên tòa để đối chất với bị cáo để xác định ma túy không phải của bị cáo. Khi bị bắt Cơ quan điều tra có thu giữ của bị cáo 04 điện thoại, chỉ điện thoại nhãn hiệu Oppo là liên quan đến việc mua bán ma túy, các điện thoại còn lại không liên quan nên đề nghị trả lại cho bị cáo. Số tiền 1.000.000đ không phải của bị cáo.
Tại phiên toà, người bào chữa cho bị cáo có ý kiến:
Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo chỉ thừa nhận mua bán đối với số ma túy thu giữ trên và cạnh thùng xốp. Đề nghị HĐXX xem xét việc Thành và C là người chủ động hỏi mua ma túy, bị cáo không có ma túy giao dịch nên bị cáo đã về phòng trọ gặp B là đối tượng có ma túy để trao đổi mua bán ma túy, do vậy Viện kiểm sát truy tố bị cáo tội Mua bán trái phép chất ma túy là đúng nhưng bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự trong lượng ma túy là Bo nhiêu đề nghị làm rõ để không ảnh hưởng đến quyền lợi của bị cáo. Cơ quan điều tra cũng làm rõ được đối tượng tên B và C, tuy nhiên đã tách tài liệu liên quan đến B, C ra để điều tra làm rõ xử lý sau, do vậy đề nghị HĐXX xem xét.
Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội sau khi phân tích nội dung, tính chất vụ án đã giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật như Cáo trạng đã nêu, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điểm h Khoản 4 Điều 251, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điểm h Khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Đào Bá D 20 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy.
Về vật chứng: Áp dụng Điều 47- BLHS, Điều 106- BLTTHS tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu giữ được. Tịch thu sung công 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo và 1.000.000đ. Trả lại bị cáo 03 điện thoại di động còn lại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận N, Điều tra viên Công an thành phố Hà Nội, Điều tra viên Công an quận N đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo và người liên quan không có khiếu nại gì. Do vậy các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng đều là hợp pháp.
Đối với đối tượng tên Nguyễn T mua ma túy của D, do không xác định được nhân thân nên HĐXX không đưa vào tham gia tố tụng. [2] Về nội dung:
Ngày 28.4.2020, sau khi được đối tượng tên C gọi điện thoại hẹn gặp hỏi về ma túy, tại nơi hẹn sau khi được C và đối tượng tên Thành nhờ mua hai gói ma túy “đá” với giá 6.000.000 đồng, D được hưởng công là 500.000đ, D đã đồng ý.
Sau khi về nơi ở trọ, D khai nói chuyện với đối tượng tên B về việc C và Thành hỏi mua sáu triệu đồng ma túy, B đồng ý và bảo D cứ nhận tiền, khi C điện thoại cho D bảo Thành đến nhà trọ nhận ma túy thì D đã điện thoại hướng dẫn đường cho Thành đến phòng trọ. Tại đây, Cơ quan Công an đã bắt quả tang D đang mua bán trái phép 9,304g ma túy loại Methamphetamine cho Thành, khi bắt quả tang thì không có đối tượng B trong phòng, hiện B không ở địa phương và chỉ có D nhất lời khai của D xác định ma túy không phải của bị cáo, lời khai của Thành xác định khi đi vào cổng phòng trọ của D thì có gặp đối tượng B đi ra, Thành trực tiếp giao dịch ma túy với D. Ngoài ra, khi khám xét nơi ở của D thì phát hiện thu giữ 18,748 gam Heroine và 80,967 gam Methamphetamine, D khai B mới đến ở cùng D một ngày, chỉ có D là người D nhất sống tại phòng trọ sau khi mẹ bị cáo về nhà ở quê, mẹ bị cáo khai không biết và không liên quan về số ma túy thu giữ tại phòng trọ. Tại phiên tòa bị cáo yêu cầu giám định dấu vân tay trên gói ma túy để xác định ma túy không phải của bị cáo là không có cơ sở, đối tượng tên B không có mặt tại địa phương, anh C có lời khai không liên quan đến việc mua bán ma túy với bị cáo, đối tượng tên T hiện không làm rõ được nhân thân nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu của bị cáo được đối chất với B và C. Như vậy, lời khai của D về việc số ma túy thu giữ tại phòng trọ không phải của D là không có căn cứ, do đó bị cáo D phải chịu trách nhiệm hình sự mua bán trái phép chất ma túy với tổng số là 90,271 gam Methamphetamine và 18,748 gam Heroine. Căn cứ vào trọng lượng và chủng loại ma túy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại Điểm h Khoản 4 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Điều khoản này quy định hình phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình, ngoài ra người phạm tội còn có thể bị phạt tiền mức từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ theo Khoản 5 Điều 251 - BLHS.
[3] Như vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như Cáo trạng là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.
[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, chẳng những đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về ma tuý mà còn là nguyên nhân làm gia tăng các loại tội phạm khác. Bản thân bị cáo là người sử dụng ma tuý, đã từng bị xử lý về tội danh ma túy nhưng không chịu tu dưỡng mà cố tình ngày càng lấn sâu vào con đường phạm tội, do vậy cần thiết phải xử phạt nghiêm minh.
Khi quyết định hình phạt HĐXX xét:
Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo khai báo có mức độ, bị cáo bố đẻ là thương binh hạng ¼ để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Về nhân thân bị cáo có B tiền án về tội Cố ý gây thương tích, Trộm cắp tài sản vào các năm 2007, 2010 đều đã được xóa án.
Về tình tiết tăng nặng: Ngày 23.4.2013 TAND quận Hai Bà Trưng xử phạt 08 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy trong trường hợp tái phạm, ra trại ngày 29.8.2019, đến ngày 28.4.2020 bị cáo lại phạm tội mới nên trong trường hợp tái phạm nguy hiểm nên bị áp dụng Điểm h Khoản 1 Điều 52 – BLHS.
Như vậy bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhân thân xấu, phạm tội trường hợp tái phạm nguy hiểm, với số lượng ma túy mà bị cáo mua bán thì cần thiết phải áp dụng hình phạt tù với mức cao nhất mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.
[5] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có tài sản riêng và không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng:
- Đối với toàn bộ số ma tuý thu giữ là hàng cấm nên tịch thu tiêu huỷ.
- Đối với điện thoại di động Oppo F9 thu giữ của bị cáo, 1.000.000đ thu của đối tượng tên Thành liên quan đến việc mua bán ma túy nên tịch thu sung công.
- Đối với điện thoại nhãn hiệu Iphone 6s Plus, Nokia 1202, Samsung Galaxy J7 thu giữ của bị cáo không liên quan đến ma tuý nên trả lại cho bị cáo D.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ Điểm h Khoản 4 Điều 251, Khoản 2 Điều 51, Điểm h Khoản 2 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt: Đào Bá D 20 (hai mươi) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma tuý. Thời hạn tù tính từ ngày 28.4.2020.
2. Căn cứ Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội:
- Về vật chứng:
+ Tịch thu tiêu huỷ: 01phong bì niêm phong dán kín, có chữ ký của Đào Bá D, giám định viên Nguyễn Văn H, cán bộ Lưu Trọng Đ; 01phong bì niêm phong dán kín (ký hiệu M1), có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn H, cán bộ Lưu Trọng Đ, người chứng kiến Đỗ Đức N và Vũ T; 01phong bì niêm phong dán kín (ký hiệu M2), có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn H, cán bộ Lưu Trọng Đ, người chứng kiến Đỗ Đức N và Vũ T; 01phong bì niêm phong dán kín (ký hiệu M3), có chữ ký của giám định viên Nguyễn H, cán bộ Lưu Trọng Đ, người chứng kiến Đỗ Đức N và Vũ T.
+ Tịch thu sung công: số tiền 1.000.000đ (hiện đang lưu giữ tại tài khoản Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hà Nội); 01 điện thoại di động kiểu dáng Oppo, số Imei 860163040465937.
+ Trả lại cho bị cáo D: 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone, số Imei 353328076140498; 01 điện thoại di động kiểu dáng Nokia, số Imei 358957013181705; 01 điện thoại di động kiểu dáng Samsung, số Imei 352810092111612.
(Tình trạng vật chứng như biên bản bàn giao giữa Công an Thành phố Hà Nội và Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hà Nội ngày 28.01.2021)
- Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 169/2021/HS-ST ngày 04/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 169/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về