Bản án 169/2018/HC-PT ngày 24/05/2018 về khiếu kiện hành vi hành chính quản lý đất đai

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 169/2018/HC-PT NGÀY 24/05/2018 VỀ KHIẾU KIỆN HÀNH VI HÀNH CHÍNH QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 24 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 63/2018/TLPT–HC ngày 01 tháng 02 năm 2018 về khiếu kiện hành vi hành chính về quản lý đất đai.

Do bản án hành chính sơ thẩm: 94/2017/HC-ST ngày 11 tháng 12 năm 2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 553/2018/QĐPT ngày 26 tháng 4 năm 2018; giữa các đương sự:

1. Người khởi kiện: Ông Hồ Văn M, sinh năm 1965; (có mặt)

Đa chỉ: Ấp B, xã B1, huyện T, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Văn Ph (Có mặt)

2. Người bị kiện:

- Ủy ban nhân dân huyện Th, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền của UBND huyện Th: Phó Chủ tịch UBND huyện – Ông Phan Văn T. (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của UBND huyện Th: Ông Nguyễn Ngọc Nh –Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Th. (có mặt) - Ủy ban nhân dân xã M, huyện Th, tỉnh Long An. (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Bà Hồ Thị Xuân L, sinh năm 1962.

Đa chỉ: đường Tr, Phường 1, thành phố T1, tỉnh Long An. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 09/8/2017 và tại phiên tòa người khởi kiện ông Hồ Văn M trình bày như sau:

Năm 2015, ông M làm mất Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số P 146512 do UBND huyện Th, tỉnh Long An cấp cho ông Hồ Văn M ngày 12/8/1999 thửa đất số 1149, trong đó gồm 300 m2 đất thổ và 1731 m2 đất lúa, tờ bản đồ số 3 tọa lạc tại xã M, huyện Th, tỉnh Long An. Ông M đã đến UBND xã M khai báo việc mất Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên và yêu cầu UBND xã M thực hiện các thủ tục cần thiết để ông có cơ sở đến Văn phòng đăng ký quyền sử dụng dất huyện Th xin cấp lại giấy CNQSDĐ bị mất theo quy định của Nghị định 43/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều Luật đất đai 2013. Tuy nhiên, UBND xã M đã không thực hiện thủ tục theo quy định pháp luật và có văn bản trả lời số 505/CV-UBND ngày 16/11/2016 bác yêu cầu của ông M. Ông M tiếp tục khiếu nại văn bản 05/CV-UBND ngày 16/11/2016 của UBND xã M. Ngày 15/02/2017, UBND huyện Th ban hành công văn số 144/UBND-NC bác khiếu nại của ông M. Cả UBND xã M và UBND huyện Th đều căn cứ vào hợp đồng gửi giữ tài sản ngày 02/4/2013 (tài sản được gửi giữ là thửa đất số 1149 do ông M đang đứng tên trên giấy đỏ) mà bà Hồ Thị Xuân L xuất trình để làm cơ sở không cấp lại giấy đỏ đã mất cho ông M.

Việc UBND xã M và UBND huyện Th đều cho rằng đất này đang có tranh chấp với bà Hồ Thị Xuân L nên không thụ lý hồ sơ của ông M là không đúng vì từ trước đến nay bà Hồ Thị Xuân L chưa bao giờ thực hiện việc khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất thửa 1149 này với ông M. Mặc khác, UBND xã M và UBND huyện Th căn cứ vào hợp đồng gửi giữ tài sản lập ngày 02/4/2013 để bác yêu cầu không cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã mất cho ông M là quá vội vàng, chưa xem xét hoặc không thấy được tính bất hợp pháp của Hợp đồng gửi giữ tài sản lập ngày 02/4/2013. Theo hợp đồng gửi giữ tài sản nêu trên thì bên gửi giữ tài sản là ông Hồ Văn L1 đang định cư tại Hoa Kỳ và bên nhận giữ tài sản là ông Hồ Văn M, hợp đồng gửi giữ tài sản này do ông Hồ Văn L1 đơn phương lập, không có chữ ký của bên nhận giữ tài sản là ông Hồ Văn M, đồng thời hợp đồng gửi giữ tài sản này lại có sự làm chứng của Văn phòng Luật sư Nguyễn Hữu X – Trưởng Văn phòng luật sư Nguyễn Hữu X khi không có mặt, không có chữ ký của người nhận giữ tài sản thì việc làm chứng của Luật sư Nguyễn Hữu X là trái pháp luật nên hợp đồng này không có giá trị pháp lý.

Nay ông Hồ Văn M khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Hủy Văn bản trả lời đơn của công dân số 144/UBND-NC ngày 15/02/2017 của UBND huyện Th và hủy văn bản số 505/CV-UBND ngày 16/11/2016 của UBND xã M, huyện Th, tỉnh Long An.

- Buộc UBND xã M và UBND huyện Th, tỉnh Long An nhận lại hồ sơ và thực hiện thủ tục xin cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số P 146512 đã mất thuộc thửa số 1149 (trong đó 300 m2 đất thổ và 1731 m2 đất lúa), tờ bản đồ số 3, tọa lạc tại xã M, huyện Th, tỉnh Long An cho ông Hồ Văn M.

Tại bản án hành chính sơ thẩm: 94/2017/HC-ST ngày 11 tháng 12 năm 2017, Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã quyết định:

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính.

Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Văn M về việc yêu cầu Tòa án hủy Văn bản trả lời đơn của công dân số 144/UBND-NC ngày 15/02/2017 của UBND huyện Th và hủy văn bản số 505/CV-UBND ngày 16/11/2016 của UBND xã M, huyện Th, tỉnh Long An.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Văn M về việc yêu cầu Tòa án buộc UBND xã M và UBND huyện Th, tỉnh Long An nhận lại hồ sơ và thực hiện thủ tục xin cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số P 146512 đã mất thuộc thửa số 1149 (trong đó 300 m2 đất thổ và 1731 m2 đất lúa), tờ bản đồ số 3, tọa lạc tại xã M, huyện Th, tỉnh Long An cho ông Hồ Văn M.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về phần án phí và quyền kháng cáo theo luật định Trong đơn kháng cáo, ông Hồ Văn M không ghi ngày nhưng căn cứ thông báo nộp tạm ứng án phí phúc thẩm của Tòa án tỉnh xác định ngày ông M kháng cáo là ngày 13/12/2017, yêu cầu sửa án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, ông Trần Văn Ph người đại diện theo ủy quyền của ông Hồ Văn M giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát:

Căn cứ chứng cứ có tại hồ sơ, lời khai của người khởi kiện cho thấy khi làm đơn xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ông Hồ Văn M không cung cấp được các chứng cứ chứng minh là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số P146512 mà ủy ban nhân dân huyện Th cấp cho ông M năm 1999 đã bị mất, nên ủy ban nhân dân huyện không cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Hồ Văn M là đúng. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông M là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông M, giữ y án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ có tại hồ sơ, lời trình bày của đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện tại phiên tòa phúc thẩm, cho thấy việc Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Văn M là có căn cứ bởi các lẽ sau:

[1] Năm 1999, ủy ban nhân dân huyện Th tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Hồ Văn M với diện tích là 300m2 đất thổ và 1731m2 đất lúa ở xã M, huyện Th, tỉnh Long An. Về nguyên tắc chung,vì lý do nào đó khi người dân làm mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì cơ quan chức năng sẽ cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới khi có đủ căn cứ để kết luận rằng việc mất là có thật. Ở trường hợp ông Hồ Văn M thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số P146512 cấp ngày 12/8/1999 của UBND huyện Th cấp cho ông Hồ Văn M là của ông Hồ Văn L1 hiện đang định cư ở Hoa Kỳ, ông M chỉ là người đứng tên dùm (BL số 35), người nhà của ông L1 trình bày Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số P146512 cấp ngày 12/8/1999 không có mất, hiện do ông L1 đang giữ. Để có căn cứ xem xét Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thật sự ông L1 đang giữ hay đã mất nên UBND huyện không cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Hồ Văn M là đúng. Hành vi hành chính trong việc không cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất làm cho ông M là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Trước hết, khẳng định văn bản số 144/UBND/VB ngày 15/02/2017 của UBND huyện Th và văn bản số 505/CV-UBND ngày 16/11/2016 của UBND xã M là công văn trả lời của cơ quan có thẩm quyền đối với yêu cầu của ông Hồ Văn M, các công văn trên không phải là quyết định hành chính vì nó không thể hiện mệnh lệnh bắt buộc ai đó phải làm hoặc không làm một công việc gì. Nội dung các văn bản trên chỉ thể hiện hành vi của cơ quan chức năng diễn giải văn bản đối với một yêu cầu cụ thể nào đó.

[3] Tòa án cấp sơ thẩm cần phải rút kinh nghiệm trong việc xác định quan hệ pháp luật và tư cách tham gia tố tụng trong vụ án này. Cụ thể:

[3.1] Vì quan hệ pháp luật: Trong vụ án này xác định là khiếu kiện hành vi hành chính, trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai, công văn trả lời của UBND xã M, cũng như công văn trả lời của UBND huyện Th không phải là quyết định hành chính cá biệt nên không xem nó là quyết định hành chính.

[3.2] Về người tham gia tố tụng: Về hành vi hành chính của cơ quan nhà nước không cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Hồ Văn M, không làm ảnh hưởng gì đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Hồ Thị Xuân L. Do đó, việc tòa án cấp sơ thẩm xác định bà Hồ Thị Xuân L là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án này là không đúng.

[3.3] Về cách tuyên án: Cấp sơ thẩm đã tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Văn M đối với yêu cầu hủy văn bản 144 của UBND Th và văn bản 505 của UBND xã M, nhưng lại tuyên tiếp không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Văn M về việc buộc UBND xã M và UBND huyện Th nhận lại hồ sơ và tài liệu, tiếp tục xem cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… Tuyên như vậy là thừa và không đúng với bản chất vụ việc bởi lẽ: công văn số 144 của UBND huyện Th và công văn 505 của UBND xã M trả lời không có căn cứ cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

[4] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Hồ Văn M phải chịu án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Hồ Văn M. Giữ y án sơ thẩm số 94/2017/HCST ngày 11/12/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

Tuyên xử:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Văn M về việc yêu cầu hủy văn bản trả lời đơn số 144 của UBND huyện Th và văn bản 505 của UBND xã M, huyện Th.

Về án phí: ông Hồ Văn M phải chịu án phí phúc thẩm. Chuyển số tiền tạm ứng án phí (theo biên lai thu số 0001841 ngày 14/12/2017 của Cục thi hành án dân sự tình Long An) thành án phí phúc thẩm.

Các nội dung khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị là có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

631
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 169/2018/HC-PT ngày 24/05/2018 về khiếu kiện hành vi hành chính quản lý đất đai

Số hiệu:169/2018/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 24/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về