Bản án 168/2020/HS-ST ngày 22/10/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 168/2020/HS-ST NGÀY 22/10/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 157/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa ra xét xử số 155/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 10 năm 2020, đối với bị cáo:

Bùi Xuân H, sinh năm 1987; tại Hà Nội; ĐKHKTT và nơi cư trú: Số X phố H, thị trấn Y, huyện G, thành phố H; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 8/12; nghề ngH: Lao động tự do; họ tên cha: Bùi Xuân H- sinh năm 1960; họ tên mẹ: Vũ Thị Kim L- sinh năm 1964; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 247 ngày 26- 6-2020 do Công an huyện Gia Lâm lập và lý lịch bị can thì bị cáo không có tiền án tiền sự. Về nhân thân:

- Năm 2004, Công an quận Long Biên, Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản.

- Năm 2005, Công an thị trấn Yên Viên, Gia Lâm, Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi Chiếm giữ trái phép tài sản - Ngày 20/6/2006, Tòa án nhân dân quận Long Biên, Hà Nội xử phạt 14 tháng tù về tội Cưỡng đoạt tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/5/2007 (đã được xóa án tích) Ngày 27/8/2007, Tòa án nhân dân thành phố Hà Đông, tỉnh Hà Tây xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/7/2008 (đã được xóa án tích) Bị cáo bị bắt quả tang tạm giữ từ ngày 23/6/2020 đến ngày 02/7/2020 chuyển tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Trại tạm giam số 2- Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Ngô Văn G, sinh năm 1984; trú tại: Thôn Đ, xã Đ, huyện K, tỉnh N(vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 23/6/2020, H đi xe Bus từ cổng ga Yên Viên, Gia Lâm, Hà Nội lên khu vực Từ Sơn, Bắc Ninh nhằm mục đích mua ma túy về để bán kiếm lợi. Khi đi đến khu vực Từ Sơn, Bắc Ninh, H gặp 1 người đàn ông không quen biết và mua 01 túi nilon ma túy đá, 01 túi nilon nhỏ có chứa 02 viên nén hình tròn ma túy ngựa với giá 800.000 đồng. Sau khi mua được ma tuý, H chia số ma túy đá mua được vào các túi nilon nhỏ đựng trong hộp kim loại thuốc lá Thăng Long màu vàng bên ngoài dán băng dính màu đen để bán lại cho các đối tượng nghiện. Khoảng 20 giờ cùng ngày thì Ngô Văn G điều khiển xe máy đến nhà H, hỏi mua 150.000 đồng tiền ma túy đá và xin H cho sử dụng luôn tại nhà thì H đồng ý, H đưa chai nhựa bên trong có nước, trên nắp chai có 02 lỗ, 1 lỗ cắm coong thủy tinh, 1 lỗ cắm ống hút bằng nhựa và cho 1 phần ma túy đá vào trong coong thủy tinh để Giang sử dụng. H dùng bật lửa khò đốt ma túy trong coong sau đó H đưa bật lửa khò cho Giang tự sử dụng còn H đi ra ngoài khu vực sửa xe thì lực lượng Công an vào kiểm tra, phát hiện Giang đang sử dụng ma túy, trong coong vẫn còn ma túy. H tự nguyện giao nộp số tiền 150.000đ tiền bán ma túy và hộp thuốc lá Thăng Long ở tủ đựng đồ trong nhà H, bên trong có các gói chứa ma túy dùng để bán cho các đối tượng sử dụng để kiếm lời. Lời khai nhận tội của bị can phù hợp vật chứng đã thu giữ, phù hợp lời khai người liên quan, người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng thu giữ của Bùi Xuân H gồm:

- 01 hộp thuốc lá Thăng Long bằng kim loại KT 8,5x9x1,7cm được bọc bên ngoài và xung quanh bằng băng dính đen. Bên trong hộp có:

+ 01 túi nilon màu trắng KT 2x3cm bên trong có 01 viên nén hình tròn màu hồng và 01 mảnh viên nén màu hồng trắng + 02 túi nilon màu trắng KT 7,5x4cm bên trong có chứa các tinh thể màu + 06 túi nilon màu trắng KT 1,5x2cm bên trong có các tinh thể màu trắng + 01 túi nilon màu trắng KT 1,5x2 cm bên ngoài được quấn băng dính màu đen, bên trong có các tinh thể màu trắng - 01 túi nilon màu trắng KT 7x4,5cm bên trong có 05 túi nilon màu trắng kích thước 2x3cm và 05 túi nilon màu trắng KT 1,5x2cm Ngoài ra thu giữ của Bùi Xuân H số tiền 150.000 đồng; 1 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu vàng đã qua sử dụng, có số IMEI1: 863897038016197, số IMEI 2:863897038016189, bên trong lắp sim số 0961863587 và 0929228410.

Vật chứng thu giữ của Ngô Văn G: 01 chai nhựa bên trong có chứa chất lỏng không màu, nắp màu vàng cam đục 02 lỗ, 1 lỗi cắm 01 chiếc coong bằng thủy tinh, trong coong có chứa tinh thể màu trắng, lỗ còn lại cắm 01 đoạn ống hút bằng nhựa màu xanh dài khoảng 30cm; 01 bật lửa khò.

Ngoài ra thu giữ của Ngô Văn G: 01 ví màu nâu đã qua sử dụng; số tiền 500.000 đồng; 01 điện thoại di động màu đen dáng SAMSUNG galaxy J7 prime bên trong lắp 02 sim số: 0329890018, 0969311601 đã qua sử dụng; 01 xe máy kiểu dáng Honda Wave alpha màu xanh có BKS: 35N8-2661, số máy: 02263677, số khung: 00106243 đã qua sử dụng Tại Bản kết luận giám định số 5102/KLGĐ-PC09 ngày 01/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP Hà Nội, kết luận:

+ Tang vật thu giữ của Bùi Xuân H gồm:

Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon KT 7,5x4cm có khối lượng 0,997gam là ma túy loại Methaphetamine Tinh thể màu trắng bên trong 07 túi nilon có tổng khối lượng 1,545 gam đều là ma túy loại Methaphetamine Tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nilon được dán ngoài bằng băng dính đen có khối lượng 0,204 gam là ma túy loại Methaphetamine 01 viên nén màu hồng và 01 mảnh viên nén màu hồng bên trong túi nilon có khối lượng 0,130 gam là ma túy loại Methaphetamine Tổng khối lượng 2,876 gam ma túy Methaphetamine + Tang vật thu giữ của Ngô Văn G gồm: Tinh thể màu trắng bên trong 01 cóng thủy tinh có khối lượng 0,045gam ma túy loại Methaphetamine.

Tại Bản kết luận giám định số 5103/KLGĐ-PC09 ngày 01/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP Hà Nội, kết luận: 01 ống hút nhựa màu xanh dài 30cm có dính ma túy loại Methaphetamine; chất lỏng không màu bên trong 01 chai nhựa có nấp màu vàng cam được đục 2 lỗ không tìm thấy chất ma túy.

Tại bản Cáo trạng số 159/CT-VKSGL ngày 02 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo Bùi Xuân H về tội “ mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay thấy rằng: Hành vi của bị cáo Bùi Xuân H đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Bùi Xuân H.

- Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47, của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo Bùi Xuân H mức án từ 42 tháng đến 48 tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày 23/6/2020.

- Về hình phạt bổ sung: Không.

Về xử lý vật chứng:

+Tch thu tiêu hủy 01 vỏ hộp thuốc lá Thăng Long bằng kim loại KT 8,5x9x1,7cm được bọc bên ngoài và xung quanh bằng băng dính đen.

+ 01 túi ninon màu trắng, kích thước 2x3cm bên trong chứa 01vieen nén màu hồng và 01 mảnh màu hồng là ma túy loại Methamphetamin, tổng khối lượng 2,876 gam, đã trích mẫu 0,402 gam, còn lại 2,474 gam thu giữ của Bùi Xuân H.

+Tch thu sung công số tiền 150.000 đồng thu giữ của Bùi Xuân H.

+Tch thu tiêu hủy 01 chai nhựa bên trong có chứa chất lỏng không màu, nắp màu vàng cam đục 02 lỗ; 01 chiếc coong bằng thủy tinh, trong coong có chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại methamphetamin khối lượng 0,045g đã trích mẫu giám định 0,019g còn lại 0,026 gam; 01 ống hút nhựa màu xanh dài 30cm thu giữ của Ngô Văn G.

+Trả lại cho bị cáo Bùi Xuân H 1 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu vàng đã qua sử dụng, có số IMEI1: 863897038016197, số IMEI 2:863897038016189, bên trong lắp sim số 0961863587 và 0929228410.

Trả lại cho anh Ngô Văn G số tiền 500.000 đồng.

Nói lời sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lâm, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn nhận tội và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, bản Kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm đã truy tố.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 00 ngày 23/6/2020, tại số nhà 259 Hà Huy Tập, thị trấn Yên Viên, Gia Lâm, Hà Nội, bị can Bùi Xuân H đã bán ma túy Methaphetamine giá 150.000 đồng cho Ngô Văn G. Ngoài ra bị can Bùi Xuân H có hành vi cất giữ trái phép 10 gói ma túy loại Methaphetamine, có tổng khối lượng 2,876 gam mục đích để bán kiếm lợi nhưng chưa kịp bán thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt giữ cùng vật chứng.

[3] Hành vi của bị cáo Bùi Xuân H đã có đủ yếu tố cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

[4] Viện Kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[5] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy được Bộ luật hình sự bảo vệ. Hiện nay ma túy là hiểm họa đối với con người, tác động xấu đến kinh tế, xã hội, an ninh trật tự, đạo đức, lối sống, văn hóa của con người. Bị cáo đã nhận thức được điều này nhưng vẫn ngang nhiên bán ma túy cho anh Ngô Văn G với mục đích để thu lợi bất chính là thể hiện sự coi thường pháp luật. Vì vậy cần phải được xử lý bằng một bản án hình sự của Nhà nước mới có tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng cũng như trong việc đấu tranh đối với loại tội phạm này nói chung.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

[6] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Bùi Xuân H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Mặc dù bị cáo không có tiền án tiền sự nhưng nhân thân bị cáo có hai tiền sự đã được xóa án tích, hai tiền án đã được xóa án tích nên thể hiện bị cáo có nhân thân xấu, đã được nhà nước cải tạo, giáo dục nhiều lần nhưng vẫn đi vào con đường phạm tội.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[8] Xét tính chất và mức độ hành vi phạm tội cùng nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt bị cáo một mức án tù trong khung hình phạt nhằm cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian dài mới có đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo vì bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã nhận định ở trên.

[9] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về nhân thân của bị cáo, về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, về mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

- Về hình phạt bổ sung:

[10] Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, không có nghề ngH, thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ.

- Về xử lý vật chứng:

[11] Đối với 01 hộp thuốc lá thăng long bằng kim loại KT 8,5x9x1,7 được bọc bên ngoài và xung quanh bằng băng dính đen và 01 túi ninon bọc 10 gói ma túy không có giá trị kinh tế nên cần cho tịch thu tiêu hủy là có căn cứ.

[12] Đối với số ma túy thu giữ của Bùi Xuân H qua giám định là methamphetamine, khối lượng 2,876gam (đã trích mẫu 0,042gam, còn lại 2,474 gam) là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần cho tịch thu tiêu hủy là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[13] Đối với 01 chai nhựa bên trong có chứa chất lỏng không màu, nắp màu vàng cam đục 02 lỗ, 01 chiếc coong bằng thủy tinh, trong coong có chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại methamphetamin khối lượng 0,045g đã trích mẫu giám định 0,019g còn lại 0,026 gam và 01 ống hút nhựa màu xanh dài 30cm thu giữ của Ngô Văn G là vật nhà nước cấm lưu hành, không có giá trị kinh tế nên cần cho tịch thu tiêu hủy là có căn cứ.

[14] Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu vàng đã qua sử dụng, có số IMEI1: 863897038016197, số IMEI 2:863897038016189, bên trong lắp sim số 0961863587 và 0929228410 thu giữ của Bùi Xuân H do H không dùng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.

[15] Đối với số tiền 150.000.000 đồng thu giữ của Bùi Xuân H là tiền thu lời bất chính của H nên cần cho tịch thu sung công là phù hợp với quy định của pháp luật.

[16] Đối với số tiền 500.000 đồng thu giữ của Ngô Văn G là tiền của Giang không dùng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho Ngô Văn G là phù hợp với quy định của pháp luật.

- Về các vấn đề khác:

[17] Đối với Ngô Văn G có nhân thân: Ngày 22/4/2005, Tòa án quận 9, TP Hồ CHí Minh xử phạt 1 năm tù giam về tội trộm cắp tài sản, ra trại ngày 16/9/2005. Khối lượng ma túy Methaphetamine còn dính ở coong thủy tinh thu giữ của Giang là 0,045 gam nên không đủ cấu thành tội phạm. Cơ quan CSĐT – Công an huyện Gia Lâm đã ra Quyết định xử phạt hành chính Ngô Văn G về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng quy định của pháp luật.

[18] Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo Bùi Xuân H, do không xác định được nhân thân, nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

[19]Đối với chiếc xe máy Honda Wave alpha màu xanh có BKS: 35N8- 2661, số máy: 02263677, số khung: 00106243 đã qua sử dụng thu giữ của Ngô Văn G. Giang khai nhận đã mua chiếc xe máy trên tại chợ xe cách đây 3-4 năm với giá khoảng 2,5-3 triệu đồng, hiện đã thất lạc giấy tờ mua bán xe, chỉ còn giữ đăng ký xe. Qua xác minh đứng tên đăng ký xe là chị Đào Thị Quế, địa chỉ: Sào Lâm, Văn Phú, Nho Quan, Ninh Bình mua từ năm 2007 với giá 10 triệu đồng, khoảng 3-4 năm thì bán lại cho người buôn xe với giá 3 triệu đồng cùng giấy tờ xe, chị không nhớ người mua xe là ai và vì đã bán xe nên chị không có đề nghị, không liên quan gì đến chiếc xe. Do vậy, ngày 17/9/2020, cơ quan CSĐT – Công an huyện Gia Lâm đã trả chiếc xe máy trên cho anh Ngô Văn G là phù hợp với quy định của pháp luật.

[20]Đối với chiếc điện thoại di động màu đen dáng SAMSUNG galaxy J7 prime bên trong lắp 02 sim số: 0329890018, 0969311601 đã qua sử dụng và 01 ví màu nâu là tài sản của Ngô Văn G không liên quan đến hành vi phạm tội. Do vậy Cơ quan CSĐT – Công an huyện Gia Lâm đã trả lại cho anh Giang là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[21] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về hình phạt bổ sung, về xử lý vật chứng và về các vấn đề khác là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

- Về án phí:

[22] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Về quyền kháng cáo:

[23] Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

- Xử phạt bị cáo Bùi Xuân H 46 tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.Thời hạn tù tính từ ngày 23/6/2020.

2. Về hình phạt bổ sung: Không.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

-Về xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 hộp thuốc lá Thăng Long bằng kim loại KT 8,5x9x1,7cm được bọc bên ngoài và xung quanh bằng băng dính đen. Bên trong hộp có 01 túi nilon chứa 10 túi nilon màu trắng chứa ma túy loại Methamphetamin, tổng khối lượng 2,876 gam, đã trích mẫu 0,402 gam, còn lại 2,474 gam thu giữ của Bùi Xuân H.

+Tch thu tiêu hủy 01 chai nhựa bên trong có chứa chất lỏng không màu, nắp màu vàng cam đục 02 lỗ; 01 chiếc coong bằng thủy tinh, trong coong có chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại methamphetamin khối lượng 0,045g đã trích mẫu giám định 0,019g còn lại 0,026 gam; 01 ống hút nhựa màu xanh dài 30cm thu giữ của Ngô Văn G.

+Trả lại cho bị cáo Bùi Xuân H 1 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu vàng đã qua sử dụng, có số IMEI1: 863897038016197, số IMEI 2:863897038016189, bên trong lắp sim số 0961863587 và 0929228410.

(Hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/10/2020).

+Tch thu sung công số tiền 150.000 đồng thu giữ của Bùi Xuân H.

+Trả lại cho anh Ngô Văn G số tiền 500.000 đồng.

(Hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm theo Biên lai số1932 ngày 21/10/2020).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Bùi Xuân H phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 168/2020/HS-ST ngày 22/10/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:168/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về