TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 168/2019/HS-ST NGÀY 23/09/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 166/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 164/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:
Vàng A L, sinh ngày 15/3/1994, tại huyện M, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản C, xã Đ, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: 06/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vàng A P và bà Giàng Thị G; bị cáo có vợ là Giàng Thị D và có 03 con; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 27/01/2019 Công an huyện M, tỉnh Sơn La xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/6/2019 đến nay. Có mặt.
Người làm chứng:
- Nguyễn Văn D.Vắng mặt.
- Hoàng Văn L. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ ngày 13/6/2019 Vàng A L đi bộ một mình đi đến rừng thuộc xã C, huyện M để tìm cây phong lan. Trên đường về đến bản D, xã C, huyện M thì L gặp một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 25 tuổi không quen biết đang đi bộ một mình, L hỏi và mua được của người đàn ông đó 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu đen và 02 viên hồng phiến với giá 100.000đ mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. Sau khi mua được ma túy, L nhặt mảnh nilon màu xanh gói 02 viên hồng phiến lại rồi cất giấu cùng gói Heroine vào túi quần bên phải đang mặc và đi về nhà. Khi về đến nhà L lấy gói Heroine và gói hồng phiến cất giấu dưới chiếu ở đầu giường ngủ của L. Đến khoảng 15 giờ ngày 16/6/2019 khi L đang ở nhà một mình thì có Nguyễn Văn D, sinh năm 1994, nơi cư trú: Tiểu khu 68, thị trấn N, huyện M và Hoàng Văn L, sinh năm 1986, nơi cư trú: Tiểu khu bản M, thị trấn M, huyện M đến, D hỏi và đưa cho L 150.000đ để mua 50.000đ Heroine và 100.000đ hồng phiến, L đồng ý nhận tiền rồi đi vào đầu giường ngủ nơi cất giấu ma túy lấy ra 01 gói nilon màu đen bên trong đựng Heroine và 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng 02 viên hồng phiến đưa cho D. Sau khi nhận 02 gói ma túy, D xin L sử dụng ma túy tại nhà L, L đồng ý và cho D mượn 01 chiếc tẩu tự chế để sử dụng ma túy, Sau đó D đã lấy 01 viên hồng phiến và một ít Heroine ra cùng L sử dụng tại bàn uống nước trong nhà L, còn L ngồi trên sập gỗ và không sử dụng ma túy cùng D và L. Sau khi sử dụng Heroine và hồng phiến xong, còn lại 01 viên hồng phiến D gói lại bằng mảnh nilon màu xanh ban đầu, số Heroine còn lại D nhặt mảnh nilon màu hồng gói lại và cầm trong lòng bàn tay rồi cùng L đi về nhà L. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày D và L đi đến vườn mận thuộc bản T, xã Đ, huyện M để sử dụng ma túy, khi D, L vừa sử dụng hết số Heroine và 01 viên hồng phiến còn lại thì bị tổ công tác Công an xã Đ phát hiện, lập biên bản vi phạm hành chính, thu giữ: 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy, 01 chiếc bật lửa ga màu đỏ; 01 mảnh nilon màu xanh và 01 mảnh nilon màu hồng. Đồng thời D và L khai nhận số ma túy vừa sử dụng hết là mua của Vàng A L.
Mở rộng điều tra, ngày 17/6/2019 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M đã thi hành lệnh giữ người, Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Vàng A L, quá trình bắt giữ thu giữ số tiền 30.000đ là tiền L bán ma túy cho D ma có; khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở, đồ vật của Vàng A L thu giữ: 01 lọ nhựa màu trắng ở phần miệng có gắn ống nhựa màu xanh, trên thân có gắn ống tre kích thước 5x24cm là dụng cụ L cho D mượn để sử dụng ma túy Bản cáo trạng số: 166/CT-VKSMC ngày 10 tháng 9 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo Vàng A L về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 và tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 256 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M giữ nguyên quan điểm truy tố Vàng A L về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” và tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử:
1. Tuyên bố Vàng A L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” và tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”. Căn cứ khoản 1 Điều 251; khoản 1 Điều 256; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Vàng A L từ 24 đến 30 tháng về tội Mua bán trái phép chất ma tuý; từ 24 đến 30 tháng tù về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy. Tổng hợp hình phạt hai tội theo quy định.
Không phạt bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.
2. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu và tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong bên trong phong bì đựng: 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy, 01 chiếc bật lửa ga màu đỏ, 01 mảnh nilon màu xanh và 01 mảnh nilon màu hồng; 01 phong bì niêm phong bên trong phong bì đựng test thử ma túy của Nguyễn Văn D; 01 phong bì niêm phong bên trong phong bì đựng test thử ma túy của Hoàng Văn L; 01 phong bì niêm phong bên trong phong bì đựng test thử ma túy của Vàng A L; 01 phong bì niêm phong bên trong phong bì đựng 01 chiếc tẩu tự chế là 01 lọ nhựa màu trắng có gắn ống nhựa màu xanh và gắn ống tre; 01 vỏ phong bì đã dùng để niêm phong số tiền 30.000đ.
Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 30.000 đồng tiền mua bán ma túy.
Truy thu, nộp ngân sách Nhà nước đối với Vàng A L số tiền 120.000 đồng
3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với cáo trạng và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên toà bị cáo Vàng A L khai nhận: Ngày 13/6/2019 Vàng A L đã mua 01 gói Heroine và 02 viên hồng phiến của một người đàn ông dân tộc Mông không biết tên với giá 100.000đ mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. Đến ngày 16/6/2019 Vàng A L đã thực hiện hành vi bán trái phép số ma túy trên cho Nguyễn Văn D với giá 150.000đ. Sau khi bán ma túy cho Nguyễn Văn D, Vàng A L đã đồng ý cho Nguyễn Văn D sử dụng địa điểm là nhà ở của mình để sử dụng trái phép chất ma túy rồi Nguyễn Văn D cùng Hoàng Văn L đã sử dụng ma túy tại nhà ở của Vàng A L.
Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản vi phạm hành chính; Vật chứng thu giữ trong vụ án; lời khai của người mua và sử dụng ma túy Nguyễn Văn D và Hoàng Văn L và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo Vàng A L đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự và tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 256 Bộ luật hình sự.
Hội đồng xét xử xét thấy: Tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nhưng do nghiện chất ma túy và hám lợi bất chính nên bị cáo đã thực hiện tội phạm. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương Do vậy cần xem xét cân nhắc xử phạt bị cáo mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo. Việc cách ly bị cáo một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có thể đảm bảo được điều kiện và thời gian để bị cáo cải tạo, giáo dục trở thành người tốt có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời nhằm răn đe phòng ngừa giáo dục chung.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện chất ma túy, ngày 27/01/2019 bị Công an huyện M, tỉnh Sơn La xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và xét hỏi tại phiên tòa thấy rằng bị cáo không có tài sản nên không phạt bổ sung - phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong phong bì đựng: 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy, 01 chiếc bật lửa ga màu đỏ, 01 mảnh nilon màu xanh và 01 mảnh nilon màu hồng; 01 phong bì niêm phong bên trong phong bì đựng test thử ma túy của Nguyễn Văn D; 01 phong bì niêm phong bên trong phong bì đựng test thử ma túy của Hoàng Văn L; 01 phong bì niêm phong bên trong phong bì đựng test thử ma túy của Vàng A L; 01 phong bì niêm phong bên trong phong bì đựng 01 chiếc tẩu tự chế là 01 lọ nhựa màu trắng có gắn ống nhựa màu xanh và gắn ống tre; 01 vỏ phong bì đã dùng để niêm phong số tiền 30.000đ. Là vật Nhà nước cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với số tiền 30.000 đồng (Ba mươi nghìn đồng) thu giữ của Vàng A L xét thấy là tiền do phạm tội mà có. Cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
Đối với số tiền 120.000 đồng (Một trăm hai mươi nghìn đồng) bị cáo Vàng A L có được do mua bán ma túy mà có đã chi tiêu hết, cần buộc truy thu, nộp ngân sách Nhà nước.
[5] Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho bị cáo như bị cáo khai. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này do đó không có căn cứ để điều tra xử lý.
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn D và Hoàng Văn L hành vi không cấu thành tội phạm. Ngày 22/7/2019 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, là phù hợp và đúng quy định của pháp luật.
[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Xét thấy thời hạn tạm giam của bị cáo còn trên 45 ngày, Hội đồng xét xử không ra quyết định tạm giam đối với bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố: bị cáo Vàng A L phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”.
Xử phạt bị cáo Vàng A L 30 (Ba mươi) tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma tuý.
2. Áp dụng khoản 1 Điều 256; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố: bị cáo Vàng A L phạm tội: “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Vàng A L 30 (Ba mươi) tháng tù về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.
Áp dụng điều 55 Bộ luật hình sự: Tổng hợp hình phạt của hai tội. Buộc Vàng A L phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội là 60 (Sáu mươi) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 17/6/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung - phạt tiền đối với bị cáo.
3. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu và tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong bên ngoài tang vật tạm giữ đối với Nguyễn Văn D + Hoàng Văn L, ngày 16/6/2019: Bên trong đựng 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy, 01 chiếc bật lửa ga màu đỏ, 01 mảnh nilon màu xanh và 01 mảnh nilon màu hồng; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Vàng A L, ngày 17/6/2019.KQ: Dương tính, bên trong đựng test thử ma túy của Vàng A L; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy Hoàng Văn L, ngày 16/6/2019. HKTT: Tiểu khu Bản M, thị trấn M- M - Sơn La. KQ: Dương tính, bên trong đựng test thử ma túy của Hoàng Văn L; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử của Nguyễn Văn D, ngày 16/6/2019. HKTT: Tiểu khu 68, thị trấn N - M -Sơn La. KQ: Dương tính, bên trong đựng test thử ma túy của Nguyễn Văn D; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng thu giữ khi khám xét nhà ở của Vàng A L: Bên trong đựng 01 Lọ nhựa màu trắng có gắn ống nhựa màu xanh và gắn ống tre; 01 vỏ phong bì đã dùng để niêm phong số tiền 30.000đ.
Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 30.000 đồng (Ba mươi nghìn đồng) tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Truy thu, nộp ngân sách Nhà nước đối với Vàng A L số tiền 120.000 đồng (Một trăm hai mươi nghìn đồng) tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng an phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Vàng A L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 23/9/2019.
Bản án 168/2019/HS-ST ngày 23/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 168/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về