Bản án 168/2019/HSST ngày 10/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T S, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 168/2019/HSST NGÀY 10/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở tòa án nhân dân thị xã T.S, Tòa án nhân dân thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh mở phiên toà sơ thẩm xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số: 165/2019/HSST ngày 21 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 165/QĐXX-ST ngày 27/9/2019 đối với các bị cáo:

1/ Tòng Văn V - Sinh năm 1992.

HKTT: Đội 17, bản N.H, xã N.H, huyện Đ.B, tỉnh Điện Biên; Trình độ học vấn: 08/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Thái; Tôn Giáo: Không;

Quốc tịch: Việt Nam. Bố đẻ: Tòng Văn H1, sinh năm 1967; Mẹ đẻ: Tòng Thị P1, sinh năm 1967 (đã chết); Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ 02; Tiền sự: Không.

Tiền án: Có 01. Tại bản án số 147 ngày 15/6/2017 của TAND huyện Đ.B xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Đến ngày 23/11/2017, chấp hành xong hình phạt tù.

Nhân thân: Ngày 26/3/2019 bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T.D, tỉnh Bắc Ninh khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản”. Đến ngày 28/8/2019 tại bản án số 90/2019/HSST, Tòa án nhân dân huyện T.D, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 05 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/3/2019.

Bị cáo (có mặt tại phiên tòa).

2/ Vi Văn K - Sinh năm 1995.

HKTT: Thôn Đ, xã V.K, huyện S.Đ, tỉnh Bắc Giang; Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Tày; Tôn Giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Bố đẻ: Vi Văn K1, sinh năm 1972; Mẹ đẻ: Vi Thị H, sinh năm 1974; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Có vợ là: Lương Thùy Tr, sinh năm 1997; Có 01 sinh năm 2016;

Tiền sự: Không.

Tiền án: 01 Tại Bản án số 17/2018/HSST ngày 21/11/2018 của TAND huyện S.Đ , tỉnh Bắc Giang xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo, thử thách 12 tháng.

Nhân thân: Ngày 26/3/2019 bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T.D, tỉnh Bắc Ninh khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản”. Đến ngày 28/8/2019 tại bản án số 90/2019/HSST, Tòa án nhân dân huyện T.D, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 30 tháng tù. Chuyển hình phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo thành hình phạt tù giam tại bản án số 17 ngày 21/11/2018 của TAND huyện S.Đ , tỉnh Bắc Giang. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 36 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/3/2019 được trừ những ngày đã tạm giữ từ ngày 18/7/2018 đến ngày 21/7/2018.

Bị cáo (có mặt tại phiên tòa).

Người bị hại:

1/Công ty cổ phần Công trình đô thị P.T – Giám đốc Dương Thái Th; Địa chỉ: A 18 –No06B-HH06ĐT V.H, phường V,H, quận L.B, Hà Nội - ủy quyền cho Anh Hoàng Văn V1, sinh năm 1989; trú tại: Xóm 4, xã V.T, huyện V.Y, tỉnh Bắc Giang. (có mặt).

2/Điện Lực T.S, tỉnh Bắc Ninh – ông Trần Ngọc Q; Ủy quyền cho anh Nguyễn Đức Ng, sinh năm 1979 - Kỹ thuật Viên; Trú tại: Thôn D.S, xã P.C, thị xã T.S, Bắc Ninh. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh truy tố về hành vi như sau: Tòng Văn V, sinh năm 1992, HKTT: Đội 17, bản N.H, xã N.H, huyện Đ.B, tỉnh Điện Biên và Vi Văn K, sinh năm 1995, HKTT: Thôn Đ, xã V.K, huyện S.Đ, tỉnh Bắc Giang có quan hệ bạn bè xã hội quen biết nhau. Do không có nghề nghiệp và sống lang thang trên địa bàn huyện T.D, tỉnh Bắc Ninh nên trong khoảng thời gian từ ngày 26/01/2019 đến ngày 25/3/2019 Tòng Văn V đã 07 lần thực hiện hành vi trộm cắp dây cáp đồng tại các Trạm biến áp (TBA) trên địa bàn thị xã T.S, trong đó có 06 lần một mình V thực hiện, còn 01 lần V tham gia cùng Vi Văn K, cụ thể như sau:

* Lần thứ nhất: Khoảng 01 giờ sáng ngày 26/01/2019, một mình V đi bộ từ xã H.S, huyện T.D đến TBA Đ.N, thuộc khu phố 1 C.G, phường Đ.N, thị xã T.S, do Điện lực T.S có địa chỉ: Số 3, L.T.Đ, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh quản lý, quan sát thấy cửa vào của TBA không khóa, xung quanh vắng vẻ. Thấy điều kiện sơ hở có thể đột nhập vào trong trộm cắp được dây cáp đồng nên V liền đẩy cửa đi vào gần máy biến áp, nhìn thấy có các đầu dây cáp đồng đặt trong ống gen xoắn màu cam nối từ mặt máy biến áp vào buồng điện, trong đó có 01 ống gen xoắn bị gãy, phía trong lộ ra đoạn dây cáp đồng kích thước (1x170) mm2 có vết nối bắt vít với nhau, khoảng cách từ đầu dây cáp đến vết nối dài khoảng 02m. Biết có thể trộm cắp được nên V liền dùng tay phải lay, bẻ gãy phần đầu dây cáp nối với máy biến áp, rồi hai tay cầm vào hai đầu của vết nối bắt vít lay bẻ gãy rời. Sau khi bẻ gãy rời, V rút lấy được một đoạn dây cáp đồng kích thước (1x170) mm2, dài 02m rồi cầm cuộn lại mang cất giấu tại khu vực nghĩa trang ở gần đó. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày V ra lấy đoạn dây cáp trộm cắp được mang bán cho một người phụ nữ đi thu mua phế liệu không quen biết đi xe đạp trên đường được số tiền khoảng 100.000 đồng. Số tiền có được sau đó một mình V đã sử dụng ăn tiêu hết.

Tại bản Kết luận định giá số 50 ngày 14/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã T.S, kết luận: 01 dây cáp đồng có kích thước (1x170) mm2, dài 02 m có giá trị: 67.600 đồng.

* Lần thứ hai: Khoảng 01 giờ ngày 09/2/2019, V lang thang sau đó đi đến TBA V.L B, thuộc khu phố V.K, phường Đ.N, thị xã T.S do Điện lực T.S quản lý, mục đích để trộm cắp dây cáp đồng. Đến nơi, V quan sát thấy xung quanh vắng vẻ, sau đó tìm nhặt được một cành cây khô dài khoảng 02 m cầm trèo lên thang kim loại gắn trên cột điện rồi đi lên giá đỡ kim loại phía trên, đứng cầm cành cây móc vào lưới cầu trì phía trên máy biến áp giật xuống dưới để ngắt điện. Sau khi ngắt được điện, V vứt bỏ cành cây xuống đất rồi dùng tay lay bẻ gãy 02 đầu của đoạn dây cáp đồng, kích thước (1x150) mm2 (gồm một đầu nối với mặt trên của máy biến áp và một đầu nối với tủ điện đặt ngang với máy biến áp). Sau khi bẻ gẫy được 02 đầu đoạn dây cáp, V lấy được 01 đoạn dây cáp đồng, kích thước (1x150) mm2, dài 06 m cầm cuộn lại đút vào trong một túi ni long màu đen nguồn gốc do V nhặt được rồi mang vào cất giấu tại khu vực nghĩa trang ở gần đó. Đến khoảng 09 giờ cùng ngày V ra lấy túi ni long đựng đoạn dây cáp đồng trộm cắp được mang bán cho một người phụ nữ đi thu mua phế liệu không quen biết đi xe đạp trên đường được số tiền 200.000 đồng. Số tiền có được sau đó một mình V sử dụng chi tiêu ăn uống hết.

Tại bản Kết luận định giá số 51 ngày 14/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã T.S, kết luận: 01 dây cáp đồng KT (1x150) mm2, dài 06 m có giá trị: 564.480 đồng.

* Lần thứ ba: Khoảng 01 giờ ngày 15/2/2019, V nhặt được 01 chiếc kìm điện bằng kim loại dài khoảng 30 cm có phần tay cầm bọc bằng nhựa màu xanh, có hai lưỡi sắc dài khoảng 05 cm cầm mang theo người đi bộ lang thang đến TBA H.P, thuộc thôn H.P, xã T.G, thị xã T.S, do Điện lực T.S quản lý. Đến nơi, V quan sát thấy điều kiện xung quanh vắng vẻ nên V liền trèo lên thang kim loại gắn trên cột điện rồi đi lên giá đỡ kim loại phía trên đứng mở tủ điện gạt tắt Attomat tổng. Thấy điện đã ngắt, V dùng tay lay bẻ gãy 02 đầu của 02 đoạn dây cáp đồng KT (1x120) mm2 đều dài 08m và dùng kìm cắt đứt 02 đầu của 01 đoạn dây cáp điện KT (1x95) mm2, dài 07m. Tất cả các đoạn dây cáp này đều được nối từ tủ điện phía trên thân cột với thanh cái kim loại trong tủ điện đặt phía dưới chân cột. Sau khi lấy được tổng cộng 03 đoạn dây cáp đồng nêu trên V cầm cuộn lại đút vào trong một túi ni long màu đen nguồn gốc do V nhặt được ở gần đó rồi mang cất giấu vào trong 01 bụi cây ở khu công nghiệp T.S. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày V ra lấy túi ni long đựng 03 doạn dây cáp đồng trộm cắp được mang cho một người phụ nữ đi thu mua phế liệu không quen biết đi xe đạp ở trên đường được số tiền 480.000 đồng. Số tiền có được sau đó một mình V sử dụng chi tiêu ăn uống hết.

Tại bản Kết luận định giá số 52 ngày 14/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã T.S, kết luận: Tổng giá trị tài sản 03 đoạn dây cáp đồng V trộm cắp ngày 15/2/2019 có giá trị: 5.105.090 đồng.

* Lần thứ tư: Khoảng 01 giờ ngày 18/2/2019, V đi bộ lang thang đến TBA T.S 3, thuộc thôn P.T, xã T.S, thị xã T.S, do Điện lực T.S quản lý. Đến nơi, V quan sát thấy cửa ra vào TBA và cửa ra vào khu vực đặt máy biến áp không khóa, xung quanh vắng vẻ nên V liền mở cửa đi vào trong gạt cầu dao ngắt điện. Sau khi ngắt điện xong, V dùng tay lay bẻ gãy 02 đầu của 02 đoạn dây cáp đồng KT (1x120)mm2, đều dài 05m được nối từ mặt trên của máy biến áp với Attomat trong tủ hạ thế. Sau đó, V tiếp tục dùng tay tháo ốc vít 02 đầu của 01 đoạn dây cáp đồng KT (3x95+1x70) mm2, dài 04m được nối từ tủ hạ thế với tủ điện bên cạnh. Sau khi lấy được tổng số 03 đoạn dây cáp đồng nêu trên, V cầm mang vào khu vực 01 bãi đất trống thuộc cánh đồng phường Đồng Nguyên, thị xã T.S cất giấu. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày V ra lấy 03 đoạn dây cáp đồng trộm cắp được mang bán cho một người phụ nữ đi thu mua phế liệu không quen biết được số tiền 550.000 đồng. Số tiền có được sau đó một mình V sử dụng chi tiêu ăn uống hết.

Tại bản Kết luận định giá số 53 ngày 14/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã T.S, kết luận: Tổng giá trị tài sản 03 đoạn dây cáp đồng V trộm cắp ngày 18/2/2019 có giá trị: 3.015. 581 đồng.

* Lần thứ năm: Vẫn phương pháp như các vụ trước, khoảng 01 giờ ngày 19/2/2019 V đi đến TBA V.B 2, thuộc khu phố V.K 3, phường Đ.N, thị xã T.S, do Điện lực T.S quản lý, sau đó trèo lên thang kim loại gắn dọc theo thân cột điện để ngắt điện. Sau khi ngắt được điện, V trộm cắp được 01 đoạn dây cáp đồng, kích thước (1x150) mm2, dài 06m, cầm cuộn lại rồi mang vào khu vực nghĩa trang thuộc phường Đ.N ở gần đó cất giấu. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày V ra lấy mang bán cho một người phụ nữ đi thu mua phế liệu không quen biết được số tiền 200.000 đồng. Số tiền có được sau đó một mình V sử dụng chi tiêu ăn uống hết.

Tại bản Kết luận định giá số 54 ngày 14/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã T.S, kết luận: Đoạn dây cáp đồng V trộm cắp ngày 19/2/2019 có giá trị: 1.023.120 đồng.

* Lần thứ sáu: Khoảng 00 giờ ngày 26/2/2019 V đi đến TBA xóm 2, thuộc khu phố 3 C.G, phường Đ.N, thị xã T.S, do Điện lực T.S quản lý, sau đó sử dụng một cành cây khô dài khoảng 02m nhặt được trèo lên thang kim loại gắn dọc theo thân cột điện đứng lên giá đỡ cầm sử dụng để ngắt điện. Sau khi ngắt được điện, V dùng tay bẻ gẫy trộm cắp được 01 đoạn dây cáp đồng KT (1x240) mm2, dài 07m cầm cuộn lại rồi mang vào khu vực đường tàu thuộc phường Đ.N, thị xã T.S ở gần đó cất giấu. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày, V ra lấy bán cho một người phụ nữ đi thu mua phế liệu không quen biết đi xe đạp trên đường được số tiền 200.000 đồng. Số tiền có được sau đó một mình V tiếp tục sử dụng chi tiêu ăn uống hết.

Tại bản Kết luận định giá số 55 ngày 14/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã T.S, kết luận: Đoạn dây cáp đồng V trộm cắp ngày 26/2/2019 có giá trị: 1.290. 576 đồng.

Quá trình điều tra các đoạn dây cáp đồng tại các TBA bị V trộm cắp nêu trên được xác định thuộc sở hữu của Điện Lực T.S. Ngày 18/5/2019 anh Nguyễn Đức Ng, sinh năm 1979, HKTT: thôn D.S, xã P.C, thị xã T.S - là kỹ thuật viên an toàn chuyên trách của Điện lực T.S được Điện lực T.S ủy quyền đã làm đơn trình báo Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T.S về việc mất trộm các đoạn dây cáp đồng tại các TBA nêu trên.

* Lần thứ bẩy: Ngày 24/3/2019 V gặp K tại khu nhà hoang ở xã Hoàn Sơn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, sau đó đến khoảng 00h ngày 25/3/2019 V rủ K cùng đi trộm cắp dây cáp đồng để bán lấy tiền chi tiêu. K đồng ý. Khi đi V mang theo 01 chiếc kìm điện bằng kim loại dài khoảng 30 cm có phần tay cầm bọc bằng nhựa màu xanh và 01 lưỡi dao dọc giấy bằng kim loại kích thước (10x1) cm rồi cùng K đi dọc theo đường Quốc lộ 1A hướng Bắc Ninh - Hà Nội. Khoảng 01 giờ cùng ngày thì cả hai đi đến địa phận thuộc khu phố D.L, phường T.H, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh phát hiện thấy TBA số 8 của Công ty cổ phần công trình đô thị P.T, địa chỉ A18- No06B-HH06, khu đô thị V.H, phường V.H, quận L.B, thành phố Hà Nội quản lý, được đặt dưới ruộng phía bên phải cách trục đường Quốc lộ 1A khoảng 5m. Quan sát xung quanh thấy không có ai, phương tiện đi lại trên đường thưa thớt nên V và K trèo qua lan can đường rồi đi đến gần TBA. Đến nơi, K đứng dưới cảnh giới để V trèo lên giá đỡ ngắt điện. Sau khi ngắt được điện, V dùng tay và chiếc kìm mang theo lay bẻ, cắt các đầu dây cáp đồng được nối từ tủ biến áp với tủ hạ thế và tủ điện lấy được tổng số 09 đoạn dây cáp đồng, gồm: 04 đoạn đều dài 04m, KT (1x120)mm2; 02 đoạn KT (1x50)mm2 (gồm một đoạn dài 05m, một đoạn dài 12m); 02 đoạn KT (4x50)mm2 (gồm 01 đoạn dài 05m, 01 đoạn dài 12m); 01 đoạn KT (1x35)mm2, dài 12 mét. Sau đó, V và K cùng nhau thu gom lại rồi mang toàn bộ ra khu vực bụi chuối ở cách đó 20 m, tiếp tục dùng dao dọc giấy để rạch, tách các đoạn dây cáp ra lấy lõi đồng. Sau khi dọc, tách hết số dây cáp, V và K tìm nhặt được 02 chiếc túi ni lông màu đen ở gần đó sử dụng để đựng toàn bộ số lõi cáp dây đồng trộm cắp được cầm đi về khu vực cầu Đ.X. Trên đường đi về, V bảo K đứng chờ để V mang số lõi dây cáp đồng trộm cắp được đi bán, trên đường đi bán V đã gặp và bán 09 đoạn lõi dây cáp đồng cho 01 thanh niên không quen biết được số tiền 1.400.000 đồng. Số tiền có được sau đó cả hai cùng nhau sử dụng ăn tiêu hết.

Tại bản kết luận định giá số 32/KL-HĐĐG ngày 08/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã T.S, kết luận: Tổng trị giá số tài sản V và K trộm cắp ngày 25/3/2019 có giá trị: 15.090.371 đồng.

Vụ việc cùng ngày 25/3/2019 anh Hoàng Văn V1, sinh năm 1989, HKTT: xã V.T, huyện V.Y, tỉnh Bắc Giang – là nhân viên của Công ty cổ phần công trình đô thị P.T được Công ty ủy quyền đã làm đơn trình báo đến Công an thị xã T.S.

Quá trình khám nghiệm hiện trường tại các TBA mà các bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ được: 01 vỏ dây diện đã bị tách màu trắng đục dài 3,9m; 01 vỏ dây đã bị tách màu trắng đục dài 3,8m; 01 vỏ dây điện đã bị tách màu trắng đục dài 3,85m; 02 vỏ dây điện đã bị tách màu trắng đục mỗi dây dài 1,65m; 01 vỏ dây điện đã bị tách màu trắng đục dài 0,75m; 08 vỏ dây điện màu đen đã bị tách (gồm các kích thước: 0,35m, 1,53m, 1,70m, 3,8m, 3,85m, 3,9m, 5,5m và 9,3m) tại TBA số 08 thuộc khu phố D.L, phường T.H, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh.

Về trách nhiệm dân sự: Do quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không thu hồi được tài sản nên đến nay anh Ng, V1 yêu cầu các bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho Điện lực T.S và Công ty P.T trị giá bằng tiền các dây cáp đồng theo các kết luận định giá.

Quá trình điều tra xác định trong khoảng thời gian ngắn từ 26/01/2019 đến 25/3/2019 bị cáo Tòng Văn V đã liên tục 07 lần thực hiện hành vi trộm cắp dây cáp đồng tại các TBA trên địa bàn thị xã T.S với tổng trị giá tài sản trộm cắp là 26.156.818 đồng; Bị cáo Vi Văn K tham gia trộm cắp 01 lần cùng bị can V ngày 25/3/2019 với trị giá tài sản trộm cắp là 15.090.371 đồng. Khi thực hiện các hành vi trộm cắp nêu trên bản thân bị cáo Tòng Văn V không có nghề nghiệp, sống lang thang trên địa bàn huyện T.D, tỉnh Bắc Ninh.

Vật chứng tạm giữ còn chưa xử lý: 14 vỏ dây diện đã bị tách màu trắng đục, đen có các kích thước lần lượt là 0,35m; 0,75m; 1,53m; 1,65m; 1,70m; 3,8m; 3,85m; 3,9m, 5,5m và 9,3m. Đối với chiếc kìm và lưỡi dao dọc giấy được bị cáo V và K sử dụng làm công cụ trộm cắp. Quá trình điều tra V khai, sau khi thực hiện hành vi trộm cắp ngày 25/3/2019, V cầm chiếc kìm và lưỡi dao dọc giấy đút vào trong túi áo khoác mặc theo người, trên đường đi về V đã làm rơi ở vị trí nào đến nay không biết. Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng không thu hồi được.

Bản cáo trạng số 144/CTr - VKS ngày 15/8/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh truy tố bị cáo Vi Văn K về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, Điều 173 BLHS. Truy tố bị cáo Tòng Văn V về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b, khoản 2, Điều 173 BLHS.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo thừa nhận hành vi trộm cắp dây cáp điện, bị cáo V thực hiện bẩy vụ, bị cáo K thực hiện một vụ, là vi phạm pháp luật. Viện kiểm sát truy tố các bị cáo tội “Trộm cắp tài sản” là đúng, không oan.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh đã đưa ra chứng cứ, lý lẽ và sau khi phân tích, đánh giá tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết liên quan đến trách nhiệm hình sự của các bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1, Điều 173 BLHS; Điều 38; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; điểm h, khoản 1, Điều 52; Điều 56 BLHS.

Xử phạt bị cáo Vi Văn K từ 18 tháng tù đến 22 tháng tù. Tổng hợp với 36 tháng tù của bản án số 90/HSST ngày 28/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện T.D, tỉnh Bắc Ninh. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là từ 54 đến 58 tháng tù.

Áp dụng điểm b, khoản 2, Điều 173 BLHS; Điều 38; điểm s, r, khoản 1, khoản 2, Điều 51, điểm h, g, khoản 1, điều 52; Điều 56 BLHS.

Xử phạt bị cáo Tòng Văn V từ 03 năm tù đến 03 năm 06 tháng tù. Tổng hợp với 05 năm 06 tháng tù của bản án số 90/HSST ngày 28/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện T.D, tỉnh Bắc Ninh. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là từ 08 năm 06 tháng tù đến 09 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47, BLHS; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự : Tịch thu tiêu hủy 14 vỏ dây diện đã bị tách màu trắng đục, đen có các kích thước lần lượt là 0,35m; 0,75m; 1,53m; 1,65m; 1,70m; 3,8m; 3,85m; 3,9m, 5,5m và 9,3m.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Tòng Văn V và Vi Văn K phải bồi thường cho Công ty cổ phần Công trình đô thị P.T số tiền là 15.090.371đồng (cụ thể mỗi bị cáo là 7.545.185đồng). Bị cáo Tòng Văn V phải bồi thường cho Điện Lực T.S, tỉnh Bắc Ninh số tiền là 11.066.447đồng.

Trong phần tranh luận các bị cáo, người bị hại không có ý kiến gì với quan điểm luận tội của đại diện Viện Kiểm sát, khi được nói lời sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai của người bị hại, vật chứng đã thu giữ, kết luận định giá.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa là thống nhất với lời khai của người bị hại, vật chứng thu giữ, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản định giá. Đã đủ căn cứ khẳng định, trong ngày từ 26/1/2019 đến ngày 25/3/2019 bị cáo V đã 07 lần, có hành vi lén lút trộm cắp tài sản dây cáp điện, tài sản trị giá là 26.156. 818đồng và cùng thời điểm đó bị cáo lén lút trộm cắp tài sản dây cáp điện ở huyện T.D nhiều lần làm nguồn sống chính. Do vậy Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh truy tố bị cáo theo điểm b, khoản 2, Điều 173 BLHS. Bị cáo Vi Văn K có 01 hành vi trộm cắp tài sản trị giá là 15.090.371đồng do vậy Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh truy tố bị cáo theo khoản 1, Điều 173 BLHS. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S truy tố các bị cáo tội danh trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét tính chất vụ án và nhân thân của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tài sản của công dân mà còn làm mất trật tự trị an xã hội, gây hoang mang nghi ngờ lẫn nhau.

Đối với các bị cáo đều có nhân thân xấu, đã bị đưa ra xét xử. Do vậy với các bị cáo cần phải có một mức hình phạt tương xứng cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mới đảm bảo đủ điều kiện giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và phòng ngừa chung. Bị cáo V còn phải chịu tình tiết tăng nặng là phạm tội từ 02 lần trở lên theo điểm g, khoản 1, điều 52 BLHS. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt thấy: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải với hành vi phạm tội và tự thú đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, r, khoản 1, Điều 51, nên cần áp dụng tình tiết này cho các bị cáo.

Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47, BLHS; Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 14 vỏ dây diện đã bị tách màu trắng đục, đen có các kích thước lần lượt là 0,35m; 0,75m; 1,53m; 1,65m; 1,70m; 3,8m; 3,85m; 3,9m, 5,5m và 9,3m.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584,585, 586, 587, 589 BLDS. Buộc bị cáo Tòng Văn V và Vi Văn K phải liên đới bồi thường cho Công ty cổ phần Công trình đô thị P.T số tiền là 15.090.371đồng (cụ thể mỗi bị cáo là 7.545.185đồng). Bị cáo Tòng Văn V phải bồi thường cho Điện Lực T.S, tỉnh Bắc Ninh số tiền là 11.066.447đồng.

Liên quan đến vụ án, sau 07 lần trộm cắp thì có 06 lần V bán tài sản trộm cắp được (dây cáp đồng) cho những người phụ nữ không quen biết đi thu mua phế liệu đi trên đường và 01 lần bán cho 01 người thanh niên không quen biết cũng đi trên đường. Quá trình điều tra, V khai khi bán V không nói cho những người này biết nguồn gốc tài sản là do trộm cắp được nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự, dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Tòng Văn V, Vi Văn K phạm tội “Trộm cắp tài sản.” Áp dụng khoản 1, Điều 173; Điều 38; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; điểm h, khoản 1, Điều 52; Điều 56 Bộ luật Hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Vi Văn K 20 (Hai mươi) tháng tù. Tổng hợp với 36 tháng tù của bản án số 90/HSST ngày 28/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện T.D, tỉnh Bắc Ninh. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 56 (Năm mươi sáu) tháng tù. Thời hạn từ tính từ ngày 26/3/2019. Được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 18/7/2018 đến ngày 21/7/2018.

Áp dụng điểm b, khoản 2, Điều 173 BLHS; Điều 38; điểm s, r, khoản 1, khoản 2, Điều 51, điểm h, g, khoản 1, điều 52; Điều 56 BLHS. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Tòng Văn V 03 năm 06 tháng tù. Tổng hợp với 05 năm 06 tháng tù của bản án số 90/HSST ngày 28/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện T.D, tỉnh Bắc Ninh. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 09 (Chín) năm tù. Thời hạn từ tính từ ngày 26/3/2019.

Về dân sự vụ án: Áp dụng Điều 584,585, 586, 587, 589 Bộ luật Dân sự.

Buộc bị cáo Tòng Văn V và Vi Văn K phải bồi thường cho Công ty cổ phần Công trình đô thị P.T số tiền là 15.090.371đồng (cụ thể mỗi bị cáo là 7.545.185đồng). Bị cáo Tòng Văn V phải bồi thường cho Điện Lực T.S, tỉnh Bắc Ninh số tiền là 11.066.447đồng.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điều 47, BLHS; Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 14 vỏ dây diện đã bị tách màu trắng đục, đen có các kích thước lần lượt là 0,35m; 0,75m; 1,53m; 1,65m; 1,70m; 3,8m; 3,85m; 3,9m, 5,5m và 9,3m. Theo biên bản bàn giao giữa Công an thị xã T.S với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh ngày 20/8/2019.

- Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí HSST. Bị cáo V phải chịu 930.081đồng, bị cáo K phải chịu 377.250đồng án phí DSST.

Các bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc niêm yết bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 168/2019/HSST ngày 10/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:168/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về