Bản án 1672/2019/HNGĐ-ST ngày 22/11/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1672/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/11/2019 VỀ LY HÔN

Trong các ngày 18 tháng 11 năm 2019 và ngày 22 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 503/2018/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 10 năm 2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 5037/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L, sinh năm 1980. (Có yêu cầu vắng mặt) Địa chỉ: 16/18/5 Đường S, Phường T, quận V, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Ông Hồ Công L, sinh năm 1980. (Vắng mặt) Địa chỉ: Australia.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện và Bản tự khai, nguyên đơn là bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Hồ Công L đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường T, quận V, Thành phố Hồ Chí Minh, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 099 quyển số 01/2007 ngày 08/08/2008. Trong thời gian chung sống, bà và ông Hồ Công L phát sinh nhiều mâu thuẫn trầm trọng không thể hàn gắn được vì bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có sự chia sẻ với nhau, ông Hồ Công L có nhiều hành vi không đúng mực đối với bà và không làm tròn trách nhiệm của một người cha đối với con chung. Do tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Hồ Công L.

Về con chung: Bà và ông Hồ Công L có 01 con chung tên Hồ L, sinh ngày 06/04/2017 (Giới tính: Nam), hiện đang sống cùng bà. Bà yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng trẻ Hồ L và không yêu cầu ông Hồ Công L phải cấp dưỡng nuôi con, việc cấp dưỡng nuôi con tùy vào sự tự nguyện của ông Hồ Công L, nếu ông Hồ Công L tự nguyện cấp dưỡng nuôi con thì bà đồng ý nhận khoản cấp dưỡng đó.

Về tài sản chung: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Đối với bị đơn là ông Hồ Công L hiện đang cư trú tại Ô-xtơ-rây-li-a (Australia), Tòa án đã thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp ra nước ngoài để tống đạt thông báo thụ lý vụ án và yêu cầu cung cấp lời khai của ông Hồ Công L về việc bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L yêu cầu ly hôn với ông Hồ Công L, tuy nhiên Tòa án không nhận được bất kỳ lời khai nào của ông Hồ Công L bằng văn bản.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Nguyên đơn là bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L có Đơn xin xét xử vắng mặt.

Tòa án đã tiến hành thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp ra nước ngoài để tống đạt thông báo về ngày giờ mở phiên tòa đối với ông Hồ Công L nhưng ông Hồ Công L vắng mặt.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý vụ án đúng thẩm quyền. Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Đối với các đương sự vắng mặt, Tòa án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng.

Về nội dung: Căn cứ vào những lời trình bày của bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L cho thấy quan hệ vợ chồng giữa bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L và ông Hồ Công L hiện nay không hạnh phúc, có nhiều mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Về phía ông Hồ Công L đã được Cơ quan có thẩm quyền của Ô-xtơ-rây-li-a (Australia) tống đạt trực tiếp Thông báo về việc thụ lý, ngày giờ mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, mở phiên tòa nhưng ông Hồ Công L không có văn bản trả lời hay đơn đề nghị xét xử vắng mặt, điều này chứng tỏ ông Hồ Công L không còn quan tâm đến cuộc hôn nhân này nữa. Do đó, có cơ sở để chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L. Về con chung, do trẻ Hồ L, sinh ngày 06/04/2017 (Giới tính: Nam) vẫn dưới 36 tháng tuổi và từ khi sinh ra cho đến nay đều sống cùng bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L, nên để ổn định cuộc sống cho trẻ Hồ L thì giao trẻ Hồ L cho bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng và tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với ông Hồ Công L do bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L không yêu cầu. Về tài sản chung, bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung, bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L khai không có. Do đó, không xem xét, giải quyết đối với tài sản chung và nợ chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận định:

Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Ngày 29/8/2018, bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L đang cư trú tại Việt Nam có đơn xin ly hôn với ông Hồ Công L hiện đang cư trú tại Ô-xtơ-rây-li-a (Australia). Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại Khoản 1 Điều 28; Khoản 3 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về tố tụng:

Nguyên đơn là bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L có yêu cầu xin được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm theo Đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 01/11/2019 của bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L.

Ngày 31/10/2018, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có Công văn số 739/UTTPDS-TA30 về việc tương trợ tư pháp gửi Bộ Tư pháp để ủy thác tư pháp cho cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc tống đạt Thông báo về việc thụ lý, ngày giờ mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, mở phiên tòa vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số đối với ông Hồ Công L đang cư trú tại Ô- xtơ-rây-li-a (Australia).

Tuy nhiên, đến ngày 29/7/2019 là ngày Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm lần thứ nhất, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không nhận được văn bản thông báo về kết quả tống đạt cũng như lời khai, tài liệu, chứng cứ của ông Hồ Công L, ông Hồ Công L cũng không có mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm lần thứ nhất, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh hoãn phiên tòa.

Ngay sau khi hoãn phiên tòa, ngày 29/7/2019, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục gửi Công văn số 579/TATP-TGĐVNCTN cho Bộ Tư pháp về việc đề nghị thông báo kết quả ủy thác tư pháp.

Ngày 19/11/2019, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhận được Công văn số 3654/BTP-PLQT ngày 11/11/2019 của Bộ Tư pháp về kết quả ủy thác tư pháp. Theo nội dung công văn này thì Cơ quan có thẩm quyền của Ô-xtơ-rây-li-a (Australia) đã tống đạt trực tiếp Thông báo về việc thụ lý, ngày giờ mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, mở phiên tòa vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 739/TB-TA ngày 31/10/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cho ông Hồ Công L.

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 227, Khoản 1 và Khoản 3 Điều 228 và Khoản 5 Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Giữa bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L và ông Hồ Công L có quan hệ hôn nhân và có đăng ký kết hôn theo quy định. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp và thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Căn cứ vào các chứng cứ mà Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thu thập được từ Bản tự khai của bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L, có cơ sở để xác định rằng mục đích của hôn nhân giữa bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L và ông Hồ Công L đã không đạt được. Về phía ông Hồ Công L đã được Cơ quan có thẩm quyền của Ô-xtơ-rây-li-a (Australia) tống đạt trực tiếp Thông báo về việc thụ lý, ngày giờ mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, mở phiên tòa vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 739/TB-TA ngày 31/10/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhưng ông Hồ Công L không có văn bản trả lời hay đơn đề nghị xét xử vắng mặt, điều này chứng tỏ ông Hồ Công L không còn quan tâm đến cuộc hôn nhân này nữa. Do đó, việc bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xem xét giải quyết cho bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L được ly hôn đối với ông Hồ Công L là có căn cứ để chấp nhận.

Về con chung: Căn cứ vào Bản sao Trích lục ghi vào sổ hộ tịch việc khai sinh số 61/TLGCKS ngày 14/03/2018 của Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Sydney, Australia, có cơ sở để xác định bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L và ông Hồ Công L có 01 con chung tên Hồ L, sinh ngày 06/04/2017 (Giới tính: Nam). Đến thời điểm mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vào ngày 18/11/2019 thì trẻ Hồ L vẫn dưới 36 tháng tuổi, và trẻ Hồ L từ khi được sinh ra cho đến nay đều sống cùng bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L, bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L cũng chứng minh hiện đang có công việc và thu nhập ổn định, nên bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Do đó, để ổn định cuộc sống của trẻ Hồ L và căn cứ vào Khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, giao trẻ Hồ L cho bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với ông Hồ Công L do bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L không yêu cầu.

Về tài sản chung: Bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L không yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xem xét, giải quyết.

Về nợ chung: Bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L khai không có, nên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không xem xét, giải quyết Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L là nguyên đơn yêu cầu ly hôn nên căn cứ vào Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Khoản 3 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 37, Khoản 4 Điều 147, Khoản 1 và Khoản 3 Điều 228, Khoản 5 Điều 477 và Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2016;

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 127 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L như sau:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L được ly hôn với ông Hồ Công L. Quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L và ông Hồ Công L chấm dứt kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật. Giấy chứng nhận kết hôn số 099 quyển số 01/2007 ngày 08/08/2008 do Ủy ban nhân dân Phường T, quận V, Thành phố Hồ Chí Minh cấp không còn giá trị.

2. Về con chung: Giao trẻ Hồ L, sinh ngày 06/04/2017 (Giới tính: Nam) cho bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với ông Hồ Công L do bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L không yêu cầu.

Ông Hồ Công L có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con mà không ai được cản trở.

Bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông Hồ Công L, nếu ông Hồ Công L lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc người thân thích; Cơ quan Quản lý nhà nước về Gia đình; Cơ quan Quản lý nhà nước về Trẻ em; Hội Liên hiệp Phụ nữ thì Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về tài sản chung: Bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L không yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xem xét, giải quyết.

4. Về nợ chung: Bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L khai không có, nên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không xem xét giải quyết.

5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) mà bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0049813 ngày 01/10/2018 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Thi hành tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

6. Về quyền kháng cáo bản án:

Bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, nên quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đối với bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L là 15 ngày, kể từ ngày bà Nguyễn Phạm Thị Thúy L được tống đạt hợp lệ bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Ông Hồ Công L vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, nên quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đối với ông Hồ Công L là 01 tháng, kể từ ngày ông Hồ Công L được tống đạt hợp lệ bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1672/2019/HNGĐ-ST ngày 22/11/2019 về ly hôn

Số hiệu:1672/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về