Bản án 167/2020/HS-ST ngày 24/12/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 167/2020/HS-ST NGÀY 24/12/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 24 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 181/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 153/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn T H, sinh ngày 26 tháng 9 năm 1972 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Số 450 đường L, phường Đ, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn D và bà Trần Thị L; có chồng là Vũ Trọng L và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ ngày 12/9/2020 đến ngày 18/9/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

2. Trần T A, sinh ngày 18 tháng 02 năm 1985 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn L, xã V, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Công H và bà Đào Thị Y; chưa có chồng, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ ngày 12/9/2020 đến ngày 18/9/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

3. Nguyễn Đ D, sinh ngày 24 tháng 3 năm 1980 tại Hải Phòng. Nơi ĐKHKTT: Số 189 đường N, phường Đ, quận Hải An, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Số 7 đường V, phường M, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn M và bà Trần Thị V; có vợ là Nguyễn Thị H và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ ngày 12/9/2020 đến ngày 18/9/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 40 phút ngày 11/9/2020, tại nhà Đỗ Thị L H sinh năm 1971, ở số 136/263 đường L, phường Đ, quận Ngô Quyền, Công an quận Ngô Quyền bắt quả tang H đang thực hiện hành vi đánh bạc bằng hình thức chuyển bảng kê số đề. Hương chuyển bảng số đề với tổng số tiền bán “số đề” là 2.040.000 đồng từ tài khoản zalo “Đỗ Hương” đến tài khoản zalo “Hải Yến” của Nguyễn T H sinh năm 1972, trú tại số 450 đường Lạch Tray, phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền. Hương khai đã nhận 02 đối tượng tên Loan có tài khoản zalo là “Loan Phạm” và Hường có tài khoản zalo là “Hường xù 2” bán số đề cho Hương, hàng ngày Hương nhận bảng số đề của Loan và Hường bán, Hương tổng hợp lại rồi chuyển cho Hiên để hưởng tiền phần trăm hoa hồng chênh lệch. Lực lượng công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng (01 điện thoại di động Iphone XS max màu vàng) và đưa Hương về trụ sở làm rõ.

Công an quận Ngô Quyền tiếp tục đến nơi ở triệu tập Nguyễn T H thì phát hiện Trần T A, sinh năm 1985, trú tại thôn L, xã V, huyện Vĩnh Bảo đang làm số đề thuê cho H, A đang tính tiền thắng, thua và tiền phần trăm hoa hồng cho các bảng số đề của Đỗ Thị L H; Nguyễn Đ D sinh năm 1980, trú tại số 7 đường V, phường M, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng; Nguyễn Thị T H sinh năm 1976, trú tại số 8/20/415 đường Ngô Gia Tự, phường Đằng Lâm, quận Hải An, thành phố Hải Phòng chuyển đến cho H qua tài khoản zalo. Công an quận Ngô Quyền đã triệu tập H, A, D và H đến trụ sở làm rõ.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn T H tại nhà số 450 đường Lạch Tray, phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền thu giữ: 01 điện thoại Iphone 7 plus màu đen Trần T A dùng làm số đề; 01 điện thoại Iphone 6, 01 điện thoại Iphone 7, 01 ví vải màu xám, 01 túi da màu nâu, 01 máy tính CASIO, 01 máy cắt giấy và một số tài liệu sổ sách của gia đình Hiên.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Đ D tại nhà số 7 đường Võ Thị Sáu, phường Máy Tơ, quận Ngô Quyền thu giữ: 01 điện thoại Samsung Galaxy Note 10 Lite màu bạc, 01 điện thoại Iphone 7, 01 điện thoại OPPO, 01 đầu thu camera, 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Lê Phi Tình.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Đỗ Thị L H, Nguyễn Thị T H không thu giữ đồ vật tài liệu gì.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn T H, Trần T A, Nguyễn Đ D, Đỗ Thị L H và Nguyễn Thị T H khai: Qua quen biết xã hội Hiên nhận bán số đề cho Nam, có tên tài khoản zalo là “Nguyễn Thị Huyền” là chủ đề để hưởng tiền phần trăm hoa hồng. Hiên và Nam thống nhất như sau: Căn cứ vào kết quả xổ số miền Bắc mở thưởng hàng ngày để trả thưởng cho khách. Nếu khách trúng số đề (số khách đánh trùng với 02 số cuối giải đặc biệt) thì thắng số tiền gấp 90 lần số tiền đánh ban đầu và Hiên được hưởng 18% trên tổng số tiền bán đề; Nếu khách trúng ba càng (số khách đánh trùng với 3 số cuối giải đặc biệt) thì thắng số tiền gấp 400 lần số tiền đánh ban đầu và Hiên được hưởng 42% trên tổng số tiền bán số ba càng; Nếu khách trúng số bao (số khách đánh trùng với 02 số cuối của các giải mở thưởng) thì thắng số tiền gấp 3,4 lần số tiền đánh ban đầu và Hiên được hưởng 7,5% trên tổng số tiền bán số bao; Nếu khách trúng số bao xiên 2 thì thắng số tiền gấp 14 lần số tiền đánh ban đầu, nếu khách trúng số bao xiên 3 thì thắng số tiền gấp 48 lần số tiền đánh ban đầu, nếu khách trúng số bao xiên 4 thì thắng số tiền gấp 180 lần số tiền đánh ban đầu, tất cả các số bao xiên Hiên được hưởng 23% trên tổng số tiền đánh ban đầu.

Từ năm 2017, Hiên nhận các bảng ghi số đề của Đỗ Thị L H, Nguyễn Thị T H, Nguyễn Đ D và một số người khác nhận bán số đề cho Hiên, đồng thời Hiên thuê Trần T A đến nhà Hiên làm việc nhận và chuyển bảng số đề giúp Hiên, mỗi tháng Hiên trả Ánh 3.000.000 đồng tiền công. Hiên chuẩn bị điện thoại Iphone 7plus màu đen cho Ánh làm và cung cấp cho Ánh những số điện thoại của Hương, Hà, D và một số người khác nhận bán số đề cho Hiên để Ánh liên lạc nhận, chuyển bảng số đề. Hàng ngày Hương, Hà và D bán số đề cho khách rồi tổng hợp thành bảng ghi số đề chuyển cho Hiên qua tài khoản zalo tên “Hải Yến” để Ánh nhận, tổng hợp và chuyển bảng ghi số đề vào tài khoản zalo “Nguyễn Thị Huyền” cho Nam để hưởng tiền hoa hồng chênh lệch.

Hiên trả tiền % cho Hương số bao là 7.5%, số bao xiên là 20%, số ba càng là 40% trên tổng số tiền khách đánh ban đầu; trả cho Hà số đề là 6%, số bao là 4%, số bao xiên là 20%, số ba càng là 36% trên tổng số tiền khách đánh ban đầu; trả cho D số đề là 6%, số bao là 6%, số bao xiên là 20%, số ba càng là 36% trên tổng số tiền khách đánh ban đầu.

Ngày 11/9/2020, Ánh nhận các bảng số đề của Hương chuyển đến với tổng số tiền Hương bán số đề cho khách là 2.040.000 đồng, nhận của Hà với tổng số tiền Hà bán số đề cho khách là 1.250.000 đồng, nhận của D với tổng số tiền D bán số đề cho khách là 4.000.000 đồng và D mua số đề của Hiên là 1.920.000 đồng, tổng cộng D chuyển cho Ánh là 5.920.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số miền Bắc mở thưởng ngày 11/9/2020, Ánh tính toán tiền thắng, thua, tiền hoa hồng cho các bảng đề của Hương, Hà, D thì chỉ có D trúng đề số 29, D đánh 20.000 đồng, trúng thành 1.800.000 đồng, còn các số đề khác đều không trúng. Ánh báo kết quả đối chiếu, tính toán các bảng số đề cho Hiên để hôm sau Hiên thanh toán bù, trừ cho Hương, Hà, D thì Công an quận Ngô Quyền đến triệu tập.

Ngoài ra, Hiên và Ánh còn khai ngày 11/9/2020, Hiên chưa nhận tiền bán số đề của Hương, Hà, D, đồng thời Hiên cũng chưa thanh toán tiền thắng, thua, tiền % hoa hồng cho Hương, Hà và D. Trước ngày bị bắt, Hiên và Ánh đã nhiều lần nhận bảng số đề của Hương, Hà, D và một số người khác (không rõ lai lịch địa chỉ), sau đó chuyển cho Nam và người có tài khoản zalo là “Gà rán Hàn Quốc”, nhưng đến nay Hiên và Ánh không nhớ, tiền chênh lệch Hiên được hưởng đã chi tiêu hết. Hiên, Ánh không biết lai lịch, địa chỉ của Nam, người có tài khoản zalo “Gà rán Hàn Quốc” và một số người khác nhận bán số đề cho chị Hiên ở đâu; D còn khai bán 1 cặp số bao xiên (D không nhớ số) 500.000 đồng cho “Chiến”, nhưng D quên không chuyển cho Hiên, D không biết lai lịch, địa chỉ của những người mua số đề của D ở đâu; Hương còn khai không biết lai lịch, địa chỉ của các đối tượng Loan và Hường ở đâu; Hà còn khai đã giao nộp 01 điện thoại di động Iphone 7 plus màu hồng (Hà dùng chuyển bảng ghi số đề) cho Cơ quan điều tra, Hà không biết lai lịch, địa chỉ của những người mua số đề của Hà ở đâu.

Vật chứng: 01 điện thoại di động Iphone XS max màu vàng thu giữ của Đỗ Thị L H; 01 điện thoại di động Iphone 7 plus màu hồng thu giữ của Nguyễn Thị T H. Qúa trình điều tra xác định: Chiếc điện thoại Iphone XS max màu vàng Hương mượn của chị Nguyễn Phương Thảo (con gái của Hương); chiếc điện thoại Iphone 7 plus màu hồng Hà mượn của anh Vũ Hùng Cường (con trai của Hà) để chuyển bảng số đề cho Nguyễn T H. Chị Thảo và anh Cường đều không biết việc Hương, Hà dùng điện thoại chuyển bảng số đề. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại tài sản cho chị Nguyễn Phương Thảo, anh Vũ Hùng Cường.

Đối với 01 điện thoại di động Iphone 6, 01 điện thoại di động Iphone 7, 01 ví vải màu xám, 01 túi da màu nâu, 01 máy tính CASIO, 01 máy cắt giấy và một số tài liệu sổ sách thu giữ tại nhà Hiên. Qua trình điều tra xác định những tài sản này không liên quan đến vụ án. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại tài sản cho gia đình bị cáo Hiên.

Đối với 01 điện thoại Iphone 7, 01 điện thoại OPPO, 01 đầu thu camera và 01 chứng minh thư mang tên Lê Phi Tình. Qua trình điều tra xác định những tài sản này là của anh Lê Phi Tình sinh năm 1996, trú quán: xã Chí Lang, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa (là người làm chung quán sửa xe máy với bị can Nguyễn Đ D), không liên quan đến vụ án. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại tài sản cho anh Lê Phi Tình.

Đối với 01 điện thoại di động Iphone 7 plus màu đen Trần T A dùng nhận, chuyển và tính bảng số đề; 01 điện thoại di động Samsung Galaxy Note 10 Lite màu bạc của Nguyễn Đ D dùng gửi bảng số đề cho Hiên, cần chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền quản lý.

Tại Bản Cáo trạng số 159/CT-VKS ngày 30/11/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã truy tố các bị cáo Nguyễn T H; Trần T A; Nguyễn Đ D đồng phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà các bị cáo Nguyễn T H; Trần T A; Nguyễn Đ D thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Kiểm sát viên tại phiên toà vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Nguyễn T H; Trần T A; Nguyễn Đ D đồng phạm tội Đánh bạc và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn T H; mức án từ 18 đến 24 tháng Cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc” trừ cho các bị cáo 6 ngày tạm giữ tương ứng với 18 ngày cải tạo không giam giữ. Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng sung quỹ nhà nước.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Đề nghị xử phạt các bị cáo Trần T A và Nguyễn Đ D mỗi bị cáo mức án từ 12 đến 18 tháng Cải tạo không giam giữ về tội "Đánh bạc” trừ cho các bị cáo 6 ngày tạm giữ tương ứng với 18 ngày cải tạo không giam giữ.

Buộc bị cáo Nguyễn Đ D phải nộp lại số tiền 5.920.000 đồng sung quỹ nhà nước.

Các đối tượng Đỗ Thị L H và Nguyễn Thị T H đã bị xử phạt vi phạm hành chính. Đối tượng Đỗ Thị L H đã nộp lại số tiền thu lời bất chính là 2.040.000 đồng; đối tượng Nguyễn Thị T H đã nộp lại số tiền thu lời bất chính là 1.250.000 đồng sung quỹ nhà nước (theo các biên lai thu tiền số 0006073 và 0006074 ngày 24/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng). Vì vậy không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết.

Về xử lý vật chứng: 01 điện thoại di động Iphone 7 plus màu đen; 01 điện thoại di động Samsung Galaxy Note 10 Lite màu bạc được xác định là phương tiện phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu sung quỹ nhà nước theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/12/2020 tại Chi cục Thi hành án quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

Do các bị cáo không có thu nhập ổn định nên đề nghị được miễn khấu trừ một phần thu nhập theo quy định tại khoản 3 Điều 36 Bộ luật Hình sự.

Về án phí: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dụng vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

- Về căn cứ xác định tội danh và điều luật áp dụng:

[2] Lời khai của các bị cáo Nguyễn T H; Trần T A; Nguyễn Đ D thể hiện: Trong ngày 11 tháng 9 năm 2020 tại nhà số 450 đường Lạch tray, phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Các bị cáo Nguyễn T H và Trần T A có hành vi nhận các bảng ghi số đề của Đỗ Thị L H, Nguyễn Thị T H, Nguyễn Đ D với tổng số tiền là 11.010.000 đồng (gồm: Bảng ghi số đề của Hương có giá trị là 2.040.000 đồng; Bảng ghi số đề của Hà có giá trị là 1.250.000 đồng và bảng ghi số đề của D có giá trị là 5.920.000 đồng, trong đó D trúng số đề là 1.800.000 đồng) rồi chuyển cho Nam (chủ đề) để hưởng tiền phần trăm chênh lệch. Nguyễn Đ D có hành vi đánh bạc dưới hình thức chuyển bảng ghi số đề cho Nguyễn T H và Trần T A với tổng giá trị được thua bằng tiền là 7.720.000 đồng. Như vậy Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận các bị cáo Nguyễn T H; Trần T A; Nguyễn Đ D đồng phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại Điều 17, khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

[3] Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là đúng theo quy định của pháp luật.

[4] Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, làm mất trật tự an toàn xã hội nên cần xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

- Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[5] Các bị cáo: Nguyễn T H; Trần T A; Nguyễn Đ D không có tình tiết tăng [6] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, các bị cáo đều phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm i,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và là căn cứ để Hội đồng xét xử khi lượng hình đối với các bị cáo.

[7] Đánh giá vai trò đồng phạm: Bị cáo Nguyễn T H là kẻ chủ mưu cầm đầu và sử dụng nhà để cho các con bạc còn lại kênh bảng và thực hiện hành vi phạm tội, nên bị cáo Hiên phải chịu mức hình phạt cao nhất. Các bị cáo Trần T A và Nguyễn Đ D có vai trò đồng phạm thứ yếu, nên chịu mức hình phạt ngang nhau.

[8] Xét hành vi, nhân thân cũng như hậu quả gây ra cho xã hội không cần thiết phải áp dụng hình phạt tù giam mà chỉ cần áp dụng hình phạt tương thích là cải tạo ngoài xã hội cũng đủ để răn đe cải tạo giáo dục bị cáo, đồng thời giao bị cáo về nơi cư trú giám sát giáo dục, khẳng định tính khoan hồng của pháp luật. Vì vậy, cho các bị cáo được hưởng hình phạt Cải tạo không giam giữ. Theo quy định tại Điều 36 Bộ luật Hình sự, đối với 06 ngày tạm giữ của bị cáo tại cơ quan điều tra được chuyển đổi thành 18 ngày cải tạo không giam giữ để trừ vào thời gian phải chấp hành.

- Về việc khấu trừ thu nhập:

[9] Xét các bị cáo không có thu nhập ổn định nên được miễn khấu trừ một phần thu nhập theo khoản 3 Điều 36 Bộ luật Hình sự.

- Về hình phạt bổ sung:

[10] Ngoài hình phạt chính, riêng bị cáo Nguyễn T H là kẻ chủ mưu cầm đầu. Vì vậy bị cáo H còn bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền 10.000.000 đồng theo quy định tại tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

[11] Đối với số tiền thu lời bất chính: Buộc bị cáo Nguyễn Đ D phải nộp lại sô tiền 5.920.000 đồng sung quỹ Nhà nước.

Các đối tượng Đỗ Thị L H và Nguyễn Thị T H đã bị xử phạt vi phạm hành chính. Đối tượng Đỗ Thị L H đã nộp lại số tiền thu lời bất chính là 2.040.000 đồng; đối tượng Nguyễn Thị T H đã nộp lại số tiền thu lời bất chính là 1.250.000 đồng sung quỹ nhà nước (theo các biên lai thu tiền số 0006073 và 0006074 ngày 24/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng). Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về xử lý vật chứng:

[11] 01 điện thoại di động Iphone 7 plus màu đen của bị cáo Ánh và 01 điện thoại di động Samsung Galaxy Note 10 Lite màu bạc của bị cáo D. Hai điện thoại này được xác định là phương tiện các bị cáo phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

[12] Trong vụ án này, Đỗ Thị L H chuyển bảng bán số đề cho Hiên được tổng số tiền là 2.040.000 đồng; Nguyễn Thị T H chuyển bảng bán số đề cho Hiên được tổng số tiền là 1.250.000 đồng, do số tiền không đủ lượng, bản thân Hương và Hà không có tiền án, tiền sự về tội Đánh bạc hoặc tội Tổ chức đánh bạc, nên hành vi của H, H không cấu thành tội Đánh bạc. Công an quận Ngô Quyền đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với H, H về hành vi đánh bạc. Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[13] Đối với đối tượng tên “Nam” có tài khoản zalo “Nguyễn Thị Huyền”, cũng như người có tài khoản zalo “Gà rán Hàn Quốc” là chủ đề; một số người khác nhận bán số đề và gửi bảng ghi số đề cho Nguyễn T H qua các tài khoản zalo; những người mua số đề của Hương, Hà, D qua tài khoản zalo..., Cơ quan điều tra đã ra Lệnh thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm đối với các tài khoản zalo này để xác định lai lịch địa chỉ của những người này, nhưng đến nay chưa có kết quả; Việc Nguyễn Đ D khai bán 1 cặp số bao xiên (D không nhớ số) 500.000 đồng cho “Chiến”, nhưng D quên không chuyển cho Hiên, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ, có căn cứ sẽ xử lý sau. Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí:

[14] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điều 17; khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Bị cáo Nguyễn T H 18 (mười tám) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Trừ cho bị cáo 6 ngày tạm giữ (từ ngày 12/9/2020 đến ngày 18/9/2020) được chuyển đổi thành 18 ngày Cải tạo không giam giữ. Bị cáo Nguyễn T H còn phải chấp hành 17 (mười bẩy) tháng 12 (mười hai) ngày cải tạo không giam giữ.

Thời hạn Cải tạo không giam giữ tính từ ngày giao bị cáo Nguyễn T H cho Ủy ban nhân dân phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng được giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn T H số tiền là 10.000.000 (mười triệu) đồng để sung quỹ Nhà nước.

- Căn cứ vào Điều 17; khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Xử phạt: Các bị cáo Trần T A và Nguyễn Đ D mỗi bị cáo 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Trừ cho mỗi bị cáo 06 ngày tạm giữ (từ ngày 12/9/2020 đến ngày 18/9/2020) được chuyển đổi thành 18 ngày Cải tạo không giam giữ. Các bị cáo Trần T A và Nguyễn Đ D, mỗi bị cáo còn phải chấp hành 11 (mười một) tháng 12 (mười hai) ngày cải tạo không giam giữ.

Thời hạn Cải tạo không giam giữ bị cáo Nguyễn Đ D tính từ ngày giao bị cáo Nguyễn Đ D cho Ủy ban nhân dân phường Máy Tơ, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng được giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Thời hạn Cải tạo không giam giữ bị cáo Trần T A được tính từ ngày giao bị cáo Trần T A cho Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng được giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động Iphone 7 plus màu đen; 01 điện thoại di động Samsung Galaxy Note 10 Lite màu bạc theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

Buộc bị cáo Nguyễn Đ D phải nộp lại sô tiền 5.920.000 (năm triệu chín trăm hai mươi nghìn) đồng sung quỹ nhà nước.

- Về án phí: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Nguyễn T H, Trần T A và Nguyễn Đ D mối bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo đối với bản án:

Các bị cáo Nguyễn T H, Trần T A và Nguyễn Đ D được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 167/2020/HS-ST ngày 24/12/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:167/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về