Bản án 167/2020/HS-ST ngày 18/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 167/2020/HS-ST NGÀY 18/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 163/2020/TLST- HS ngày 10 tháng 8 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 671/2020/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 8 năm 2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Chí N, sinh năm: 1988 (Có mặt) Nơi cư trú: Khóm B, phường S, thành phố C, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Chí D (chết) và bà: Liên Diễm T; Vợ: Võ Thị Hồng S (đã ly hôn); Con: 02 người; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Tại Quyết định số 37/2019/QĐ-TA ngày 30/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 15 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Ngày 22/5/2019 tạm đình chỉ quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Lê Chí N.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 22/5/2019 cho đến nay, tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Minh T, sinh năm 1990.

HKTT: Khóm 7, phường 6, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 14 giờ 55 phút ngày 05.01.2019, lực lượng Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Cà Mau kết hợp với lực lượng Cảnh sát biển, Công an phường S, thành phố Cà Mau và Công an thành phố C bắt quả tang Lê Chí N và Nguyễn Minh T đang tàng trữ trái phép chất ma túy tại phòng trọ số 12 nhà trọ thuê tháng thuộc khóm T, phường S, thành phố C.

Tang vật thu giữ: 01 bịch nilon màu trắng bên trong có chứa tinh thể trong suốt dạng rắn nghi là ma túy, được thu giữ trong hộp giấy hình chữ nhật màu đen có chữ Kalimatlatansa; 01 bịch nilon màu trắng bên trong có chứa tinh thể trong suốt dạng rắn để trong gói thuốc màu xanh có chữ Sevendiamonds được thu ở góc phải từ cửa phòng trọ nhìn vào; 01 bịch nilon màu trắng bên trong có chứa tinh thể trong suốt dạng rắn, nghi là ma túy được đặt cạnh gói thuốc hiệu Sevendiamonds nêu trên được đặt trong góc phòng bên tay phải từ cửa phòng nhìn vào; 16 bịt nilon màu trắng để trong hộp giấy màu đen có chữ Kalimatlatansa; 01 bình hút tự chế dùng để hút ma túy đá; 01 cân tiểu ly màu nâu; 01 hộp giấy màu đen có chữ Kalimatlatansa; 01 gói thuốc màu xanh có chử Sevendiamonds; 01 điện thoại di động hiệu Oppo đã qua sử dụng của Lê Chí N, có gắn sim số 0917.333.324; 01 điện thoại di động Iphone màu bạc, gắn sim số 0913.777.763; 01 điện thoại di động Nokia màu đen, gắn sim số 0949.722.833 đã qua sử dụng và 01 xe mô tô biển số 69N1 – 242.42.

Một bịch nilon màu trắng bên trong có chứa tinh thể trong suốt dạng rắn, nghi là ma túy được thu giữ trong hộp Kalimatlatansa được niêm phong kín, có chữ ký ghi họ tên Nguyễn Minh T, Lê Chí N – người bị bắt; Điều tra viên Tiết Hoàng H, Hồ Văn T – đại diện chính quyền địa phương, Lê Thị H - Người chứng kiến, Nguyễn Văn P –PC04 và 01 dấu tròn màu đỏ của Công an phường S, ký hiệu M.01.

Một bịch nilon bên trong có chứa tinh thể trong suốt dạng rắn, nghi là ma túy được thu giữ trong gói thuốc lá hiệu Sevenidiamonds và 01 bịch nilon bên trong có chứa tinh thể trong suốt dạng rắn, nghi là ma túy được thu giữ trong góc phòng bên phải cạnh gói thuốc (nêu trên) được niêm phong kín có chữ ký Nguyễn Minh T – người bị bắt, Điều tra viên Tiết Hoàng H, Nguyễn Văn P – PC04, Lê Thị H – Người chứng kiến, Hồ Văn T – đại diện chính quyền địa phương, được ký hiệu lần lượt là M.02 và M.03.

Tại kết luận giám định số 09/GĐH-PC09 ngày 17.01.2019 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Cà Mau kết luận:

- Mẫu chất bột màu trắng bên trong 01 bịch nilon, được niêm phong kín trong phong bì hình chữ nhật, ký hiệu M.01, thu giữ ngày 05.01.2019 gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,4330 gam, loại Methamphetamine.

- Mẫu chất bột màu trắng bên trong 01 bịch nilon, được niêm phong kín trong phong bì hình chữ nhật, ký hiệu M.02, thu giữ ngày 05.01.2019 gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 2,6326 gam, loại Methamphetamine.

- Mẫu chất bột màu trắng bên trong 01 bịch nilon, được niêm phong kín trong phong bì hình chữ nhật, ký hiệu M.03, thu giữ ngày 05.01.2019 gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 36,5268 gam, loại Methamphetamine.

Hoàn lại 0,3025 gam mẫu ký hiệu M.01; 2,1849 gam mẫu ký hiệu M.02 và 34, 6738 gam mẫu ký hiệu M.03 gửi đến giám định có niêm phong sau khi trích giám định, không lưu.

Quá trình điều tra Lê Chí N khai nhận: vào ngày 03.01.2019, Nguyễn Minh T có mang đến phòng trọ thuê tháng của N một bịch ma túy lớn, T lấy ra một ít để sử dụng cùng N, số ma túy còn lại T mang ra xe cất giấu. Đến ngày 04.01.2019, T tiếp tục mang đến phòng trọ của N cả hai sử dụng hết. Sau khi sử dụng thì N ngủ. Đến khoảng 01 giờ ngày 05.01.2019, N thức dậy không thấy T nên N gọi điện cho T nhưng T không nghe máy. Một lúc sau, T nhắn lại hỏi chuyện gì thì N nói T về mà không để lại một ít cho N sử dụng làm N thèm, đồng thời rủ T đến phòng của N chơi thì T nói không có xe và mẹ T còn thức để T xem sao rồi cúp máy. Khoảng 20 phút sau, T điện kêu N chạy xe vào nhà của T ở Nhà Phấn, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước để rước T thì N điều khiển xe mô tô 69N1 – 242.42 của bạn N chạy vào nhà T để rước T. Sau khi rước T xong, trên đường chạy về phòng trọ đến khu vực phường T, thành phố C. N ghé mua một hộp cơm để về phòng ăn. Khi về đến phòng trọ của N thì T vào phòng ngồi trên nệm, còn N lấy hộp cơm ra cửa ngồi ăn mặt nhìn hướng ra bên ngoài. Khi ăn cơm xong, N quay mặt đi vào phòng thì nhìn thấy T đang lấy bịch ma túy lớn ra dùng cây cân tiểu ly để chiết ra bịch nhỏ, N thấy nhưng không nói gì mà đi thẳng vào nhà vệ sinh rửa miệng. Khi đi ra, T đã cất giấu ma túy ở đâu N không biết, thấy T có lấy ra một ít ma túy bỏ vào bình để cả hai cùng sử dụng. Đến sáng ngày 05.01.2019, không biết lúc đó là mấy giờ, N nói với T khi nào về thì để cho N một ít ma túy sử dụng. Sau đó, trong lúc N đang ngồi ăn bánh mì ở cửa phòng thì T nói cái này cho mầy nè, cái này một góc tám đó, rồi T để ma túy trên nệm ngay chổ T ngồi. Khi ăn xong, N lấy bịch ma túy T vừa cho để vào cái hộp màu đen có chữ Kalimatlatansa đang để trên nệm cũng chính là bịch ma túy mà Công an thu giữ. N đăng ký Zalo bằng số điện thoại 0917.333.324, nick name là Nick; T có nick name là Justa T.

Đối với Nguyễn Minh T khai nhận: Do có quen biết với N nên ngày 03.01.2019, T mang 01 bịch ma túy đến phòng của N để cùng với N sử dụng, khi sử dụng xong còn lại một ít T mang về. Đến khoảng 01 giờ ngày 05.01.2019, N nhắn tin cho T rủ T mang ma túy đến phòng trọ của N để sử dụng thì T đồng ý.

Đến khoảng 04 giờ ngày 05.01.2019, N chạy xe vào nhà T để rước T, khi đi T có mang theo bịch ma túy. Đến phòng của N được khoảng 10 phút thì T lấy bịch ma túy mang theo đổ hết vào bình rồi cả hai cùng sử dụng. Sử dụng đến 12 giờ cùng ngày thì nghỉ, T nằm trên nệm chơi game, còn N thì ngồi trước cửa. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày thì bị Công an kiểm tra có thu tại phòng của N 03 bịch ma túy, T có chứng kiến và có ký tên vào biên bản niêm phong. 03 bịch ma túy mà Công an thu giữ tại phòng trọ của N là của ai T không biết và cũng không biết từ đâu mà có. Từ lúc đến phòng của N đến khi bị Công an kiểm tra thì không có ai khác vào phòng của N. Còn bịch ma túy mà T mang đến phòng của N để sử dụng là do T nhờ một người tên Phương lái xe tải nên quen nhưng T không rõ nhân thân, địa chỉ mua với giá 300.000 đồng đã sử dụng hết tại phòng trọ của N. Công an thu giữ ma túy đá, cây cân tiểu ly, bình tự chế là của N, ở đâu N có T không biết. Bản thân T có sử dụng 02 số điện thoại 0913777763 và số 0949722833, T có sử dụng nick name là Justa T.

Tại biên bản thử nước tiểu phát hiện nhanh chất ma túy ngày 05.01.2019, của Công an thành phố Cà Mau thể hiện N và T có sử dụng chất ma túy.

Tại biên bản kiểm tra điện thoại ngày 05.01.2019, Công an thành phố C tiến hành kiểm tra điện thoại đã thu giữ của T và N thể hiện trên tin nhắn Zalo của T và N có nội dung liên quan đến ma túy nên tiến hành trích xuất và chụp ảnh. T thừa nhận nội dung tin nhắn trên Zalo của điện thoại T là phù hợp với nội dung tin nhắn của N nhưng T không biết ai đã lấy máy của T để nhắn. N cũng xác định nội dung là N nhắn nhưng không nhớ rõ nội dung đó là gì.

Tại bản Cáo trạng số: 110/CT-VKS ngày 06 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau truy tố bị cáo Lê Chí N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo N thừa nhận số ma túy được thu giữ trong hộp Kalimatlatansa được niêm phong kín trong phong bì hình chữ nhật, ký hiệu M.01 có khối lượng 0,4330 gam, loại Methamphetamine là của bị cáo. Số ma túy này là do Nguyễn Minh T cho bị cáo để sử dụng. Còn số ma túy được thu giữ trong góc phòng bên phải ký hiệu M.02 có khối lượng 2,6326 gam và ký hiệu M.03 có khối lượng 36,5268 gam không phải của bị cáo, là của Nguyễn Minh T, bản thân bị cáo không có ma túy. Bị cáo N xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Lê Chí N từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì hoàn mẫu đã niêm phong số 09-GĐH/PC09 ngày 17/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cà Mau; 16 bịt nilon màu trắng; 01 bình hút tự chế dùng để sử dụng ma túy; 01 hộp giấy màu đen có chữ Kalimatlatansa. Tịch thu sung quỹ 01 điện thoại hiệu OPPO gắn sim số 0917333324. Tiếp tục duy trì các vật chứng gồm: 01 câu cân tiểu li màu nâu; 01 điện thoại hiệu Iphone màu bạc gắn sim số 0913777763; 01 điện thoại hiệu NOKIA màu đen gắn sim số 0949722833; 01 gói thuốc lá màu xanh có chữ SEVENDIAMONDS giao Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra, xử lý sau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố C, tỉnh Cà Mau, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Vào lúc 14 giờ 55 phút ngày 05.01.2019, lực lượng Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Cà Mau kết hợp với lực lượng Cảnh sát biển, Công an phường S, thành phố C và Công an thành phố C bắt quả tang Lê Chí N và Nguyễn Minh T đang tàng trữ trái phép chất ma túy tại phòng trọ số 12 nhà trọ thuê tháng do N thuê thuộc khóm T, phường S, thành phố C. Tang vật thu giữ gồm: 01 bịch nilon màu trắng bên trong có chứa tinh thể trong suốt dạng rắn nghi là ma túy, được thu giữ trong hộp giấy hình chữ nhật màu đen có chữ Kalimatlatansa, ký hiệu M.01, qua giám định là ma túy có khối lượng 0,4330 gam, loại Methamphetamine; 01 bịch nilon màu trắng bên trong có chứa tinh thể trong suốt dạng rắn để trong gói thuốc màu xanh có chữ Sevendiamonds được thu ở góc phải từ cửa phòng trọ nhìn vào và 01 bịch nilon màu trắng bên trong có chứa tinh thể trong suốt dạng rắn, nghi là ma túy được đặt cạnh gói thuốc hiệu Sevendiamonds nêu trên được đặt trong góc phòng bên tay phải từ cửa phòng nhìn vào lần lượt ký hiệu là M.02 và M.03, qua giám định là ma túy có tổng khối lượng 39,1594 gam, loại Methamphetamine (M.02 là 2,6326 gam;

M.03 là 36,5268 gam).

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15.5.2018 của chính phủ.

Lê Chí N khai nhận: Bản thân N không có ma túy, số ma túy mà Công an thu giữ tại phòng trọ của N vào ngày 05/01/2019 là của Nguyễn Minh T đem lại phòng trọ của N để cùng sử dụng. Số ma túy thu giữ trong hộp Kalimatlatansa, ký hiệu M.01 có khối lượng 0,4330 gam thì N thừa nhận là của N được T cho, còn số ma túy được thu giữ trong góc phòng bên phải ký hiệu M.02 có khối lượng 2,6326 gam và ký hiệu M.03 có khối lượng 36,5268 gam là của T, được T chiết ra từ bịch ma túy lớn do T đem lại phòng trọ của N. Tại thời điểm T chiết ma túy ra bịch nhỏ thì N không biết T cất giữ ở đâu. T thừa nhận có đem ma túy đến phòng trọ của N để cùng sử dụng nhưng đã sử dụng hết. Quá trình điều tra, không chứng minh được số ma túy thu giữ tại phòng trọ do N thuê tháng vào ngày 05/01/2019 là của N hay T.

Bị cáo N thừa nhận số ma túy thu giữ trong hộp Kalimatlatansa, ký hiệu M.01 có khối lượng 0,4330 gam là của N được T cho nhằm mục đích để sử dụng. Do đó, hành vi của bị cáo N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“ 1.Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) … c ) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;” Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau truy tố bị cáo Lê Chí N là có căn cứ, đúng pháp luật, đúng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Về trách nhiệm hình sự: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý. Trước, trong và sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người đã trưởng thành, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo biết rõ hành vi tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì bản chất xem thường pháp luật, bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, cần phải áp dụng một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra và cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo N không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có nhân thân xấu, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Đối với người tên Phương mà T khai bán ma túy cho T và người phụ nữ bán ma túy cho N tại khu vực khóm 7, phường 7, thành phố Cà Mau do không xác định được nhân thân và địa chỉ cụ thể nên không mời làm việc được. Do đó, giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau tiếp tục điều tra làm rõ.

Đối với ma túy khi bắt quả tang thu giữ tại phòng trọ của N là mẫu M.02 có khối lượng 2,6326 gam, loại Methamphetamine và mẫu M.03 là 36,5268 gam, loại Methamphetamine nhưng quá trình điều tra N và T không thừa nhận. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã ra Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau để làm rõ 02 lượng ma túy nêu trên là của N hay T, xác định vai trò của T có liên quan như thế nào trong vụ án. Tuy nhiên, quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra không chứng minh số ma túy này là của ai. Đối với Nguyễn Minh T hiện nay không có mặt ở địa phương, đi đâu không rõ nên không làm việc được. Do đó, để tránh bỏ lọt hành vi và bỏ lọt tôi phạm nên tiếp tục giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau để điều tra làm rõ, có căn cứ xử lý sau.

[6] Vật chứng vụ án gồm:

- 01 phong bì hoàn mẫu đã niêm phong số 09-GĐH/PC09 ngày 17/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cà Mau; 16 bịt nilon màu trắng; 01 bình hút tự chế dùng để sử dụng ma túy; 01 hộp giấy màu đen có chữ Kalimatlatansa. Các vật chứng này có liên quan đến việc phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Oppo đã qua sử dụng, có gắn sim số 0917333.324 là của N dùng để sử dụng vào mục đích cá nhân và có liên hệ với T để sử dụng ma túy, có liên quan đến việc phạm tội nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

- 01 câu cân tiểu li màu nâu; 01 điện thoại hiệu Iphone màu bạc gắn sim số 0913.777763, 01 điện thoại hiệu NOKIA màu đen gắn sim số 0949722833 là của Nguyễn Minh T; 01 gói thuốc lá màu xanh có chữ SEVENDIAMONDS tiếp tục duy trì giao Cơ quan Cảnh sát điều tra để điều tra, xử lý sau.

- 01 xe mô tô 69N1 – 242.42 là của Đào Thúy D, sinh năm 1976 trú khóm T, thị trấn S là chủ sở hữu, D cho N mượn xe sử dụng D không biết việc N sử dụng ma túy nên ngày 23.4.2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho D nhận là phù hợp.

[7] Bị cáo phạm tội bị xét xử nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Chí N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về trách nhiệm hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Chí N 02 (Hai) năm tù. thời hạn tù tính từ ngày 22/5/2019.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì hoàn mẫu đã niêm phong số 09- GĐH/PC09 ngày 17/01/2019; 16 bịt nilon màu trắng; 01 bình hút tự chế dùng để sử dụng ma túy; 01 hộp giấy màu đen có chữ Kalimatlatansa.

- Tịch thu sung quỹ: 01 điện thoại di động hiệu Oppo đã qua sử dụng, có gắn sim số 0917.333.324.

- Tiếp tục duy trì giao Cơ quan Cảnh sát điều tra: 01 câu cân tiểu li màu nâu; 01 điện thoại hiệu Iphone màu bạc gắn sim số 0913777763; 01 điện thoại hiệu NOKIA màu đen gắn sim số 0949722833; 01 gói thuốc lá màu xanh có chữ SEVENDIAMONDS.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 27/5/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà Mau).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Lê Chí N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 167/2020/HS-ST ngày 18/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:167/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về