TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 167/2020/HSST NGÀY 08/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 08 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định. Toà án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 157/2020/TLST-HS ngày 13-5-2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 157/2020/QĐ-HSST ngày 26-5-2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn N, sinh năm 1982 tại tỉnh Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Xóm 6, đội 3, thị trấn C, huyện Trực N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B và bà Mai Thị N; có vợ Lê Thị Minh C và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 28 tháng 3 năm 2020 sau đó chuyển tạm giam đến nay tại nhà tạm giữ công an thành phố N; bị cáo có mặt tại phiên toà.
Người làm chứng: Anh Trần Thanh Lâm và ông Tứ Hồng Quân (vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ ngày 28-3-2020, Tổ công tác Công an xã N, thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực đường ven đê sông Đ thuộc tổ 1 Đ, xã N, thành phố N phát hiện Nguyễn Văn N đang điều khiển xe máy biển kiểm soát F7-6503 một mình có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra, N thả từ tay trái xuống dưới đường 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng (N khai là 01 gói Heroine). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, đưa N và mời người làm chứng về trụ sở Công an xã Nam P, thành phố N lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra còn tạm giữ của N chiếc xe máy biển kiểm soát F7-6503.
Bản kết luận giám định số 379/GĐKTHS ngày 01-4-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01 gói giấy bạc màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn N được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy Heroine; Khối lượng mẫu: 0,147 gam (không phẩy một trăm bốn mươi bảy gam).
Tại Cơ quan điều tra: Nguyễn Văn N khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mục đích để sử dụng và khai nhận nguồn gốc gói ma túy trên như sau: Khoảng 09 giờ 15 phút ngày 28-3-2020, N đi xe máy biểm kiểm soát F7-6503 một mình từ nhà lên thành phố N để tìm mua ma túy. Khi đến khu vực đường ven đê sông Đ thuộc tổ 1 Đ, xã N, thành phố N, N gặp và mua của một người phụ nữ (không rõ lai lịch) đang đứng ở ven đường 01 gói ma túy với giá 50.000 đồng. Sau đó, N cầm gói ma túy trên tay trái đang định tìm chỗ sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ như đã nêu trên.
Bản Cáo trạng số 156/CT-VKSTPNĐ ngày 12-5-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Nguyễn Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà: Bị cáo Nguyễn Văn N xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng ép cung, bức cung hay nhục hình. Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản Cáo trạng đã nêu là đúng và khai nhận biết rõ hành vi cất giữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do nghiện ma túy nên đã tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng cho bản thân. Bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới và ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Văn N theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo Nguyễn Văn N từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ số ma tuý đã thu giữ của bị cáo. Trả lại bị cáo chiếc xe máy biển kiểm soát 18F7-6503 nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn N có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có sự mâu thuẫn và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ vật chứng; bản kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định; lời khai của những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ nên đã có đủ cơ sở kết luận Khoảng 10 giờ ngày 28-3-2020, tại khu vực đường ven đê sông Đ thuộc tổ 1 Đ, xã N, thành phố N bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,147 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây mất trật tự an ninh xã hội trên địa bàn thành phố N, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có đủ năng lực hành vi trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Việc truy tố và đưa ra xét xử bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.
[3] Các tình tiết Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi Quyết định hình phạt đối với bị cáo:
[3.1] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên đối với hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và góp phần phòng ngừa chung.
[5] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng...”. Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng: 01 gói ma túy trong phong bì niêm phong số 379/GĐKTHS là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy.
Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát 18F7-6503 là tài sản riêng của bị cáo nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án.
[7] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Nguyễn Văn N Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đang tiến hành xác minh nên tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.
[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 21 (hai mốt) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo được tính từ ngày 28 tháng 3 năm 2020.
2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy trong phong bì niêm phong số 379/GĐKTHS. Trả lại bị cáo chiếc xe máy biển kiểm soát F7-6503 nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án (vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 11 tháng 5 năm 2020 giữa Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N).
3. Án phí: Bị cáo Nguyễn Văn N phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn N được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trong trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./
Bản án 167/2020/HSST ngày 08/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 167/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/06/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về