TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG - THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 166/2019/HS-ST NGÀY 06/09/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 06 tháng 9 năm 2019, tại Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 156/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 173/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 8 năm 2019 đối với:
Bị cáo Nguyễn Phương D; sinh năm 1978 tại Hà Nội; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: số T, phường B, quận T, thành phố Hà Nội; Nơi cư trú: không cố định; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Anh D và con bà Lê Minh H; gia đình có hai chị em, bị cáo là con thứ nhất; có chồng là Vũ Minh H (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị bắt quả tang ngày 09/5/2019; tạm giữ 10/5/2019; tạm giam ngày 16/5/2019. Danh chỉ bản số 168, lập ngày 17/5/2019 tại Công an quận Hai Bà Trưng. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ ngày 09/5/2019, Huy (là bạn ngoài xã hội) dùng số điện thoại 0923.078.543 gọi vào số của D là 0962.356.585 hỏi mua 05 gam ma tuý “đá”, D đồng ý bán với giá 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng) và hẹn giao ma tuý cho Huy tại ngách 25 ngõ 54 Kim Ngưu, phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Sau đó, D bắt xe ôm đến khu vực ngõ 282 Xã Đàn, phường Phương Liên, quận Đống Đa, Hà Nội gặp và mua của Trung (là bạn ngoài xã hội) 05 gam ma tuý “đá” với giá tiền là 2.100.000 đồng (Hai triệu một trăm nghìn đồng), đồng thời D nhờ Trung chia số ma tuý trên thành 03 túi. Sau khi mua được ma tuý từ Trung, D cầm số ma tuý vừa mua được ở tay phải và bắt xe ôm đến điểm hẹn gặp Huy để giao ma tuý. Khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, khi D đang đứng đợi Huy tại khu vực trước số nhà 20 ngách 25 ngõ 54 Kim Ngưu, phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội thì bị Tổ công tác Công an phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng tiến hành kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra, D tự giác giao nộp từ tay phải đang cầm 03 túi ni lông có đặc điểm: 01 túi ni lông bọc ngoài bằng giấy bạc màu trắng có kích thước khoảng 4x6cm; 01 túi ni lông màu trắng có kích thước khoảng 4x8cm; 01 túi ni lông màu trắng có kích thước khoảng 2,5x2,5cm. Cả 03 túi ni lông này đều chứa các hạt tinh thể màu trắng, tại chỗ D khai nhận là ma tuý “đá”, trong đó có 02 túi D mang để bán cho Huy với giá 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng), còn 01 túi D giữ lại để dùng cho bản thân nhưng nếu có người hỏi mua D sẽ bán lại để kiếm lời. Tổ Công tác đã lập biên bản, niêm phong tang vật và yêu cầu D về trụ sở cơ quan công an làm việc. Ngoài ra Tổ công tác còn thu giữ của D 01 điện thoại di động Iphone 5 màu trắng và số tiền 560.000 đồng (Năm trăm sáu mươi nghìn đồng).
Ngày 09/5/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hai Bà Trưng đã ra Quyết định trưng cầu giám định các tinh thể màu trắng trong 03 túi ni lông thu thu giữ của Nguyễn Phương D. Tại bản Kết luận giám định số 2972/KLGĐ-PC09 ngày 17/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:
“- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông bọc ngoài bằng giấy bạc màu trắng là ma tuý loại Methamphetamine, khối lượng: 3,917 gam;
- Tinh thể màu trắng bên trong 02 túi nilông đều là ma tuý loại Methamphetamine, tổng khối lượng: 0,488 gam”.
Ngày 09/5/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tổ chức dẫn giải Nguyễn Phương D để xác định nơi D mua ma túy và người đàn ông tên Trung đã bán ma túy cho D. Kết quả D xác định được địa điểm mua ma túy là ở đầu ngõ 282 Xã Đàn, phường Phương Liên, quận Đống Đa, Hà Nội nhưng không xác định được người đàn ông đã bán ma túy cho D. Vì vậy, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Hai Bà Trưng không có căn cứ xác minh làm rõ.
Đối với nam thanh niên tên Huy sử dụng số điện thoại di động 0923.078.543 gọi điện hỏi mua ma tuý của D: D khai không biết rõ nhân thân lai lịch, cơ quan điều tra đã ra lệnh thu giữ điện tín đối với số điện thoại 0923.078.543 gọi đến số máy của D nhưng kết quả không xác định được chủ thuê bao số điện thoại trên, nên cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh làm rõ.
Về chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng lắp sim số 0962.356.585 và số tiền 560.000 đồng (năm trăm sáu mươi nghìn đồng) thu giữ của D: Quá trình điều tra xác định điện thoại là của D, D sử dụng điện thoại để liên lạc bán ma tuý, còn số tiền 560.000 đồng (năm trăm sáu mươi nghìn đồng) do Dung lao động mà có.
Tại bản Cáo trạng số 157/CT-VKSHBT-HS ngày 05/8/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng đã truy tố Nguyễn Phương D về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo D giữ nguyên lời khai như tại cơ quan điều tra, thừa nhận nội dung, tội danh mà Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng. Bị cáo thành khẩn khai báo, đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố Nguyễn Phương D và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Phương D với mức án từ 6 năm đến 6 năm 6 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; về xử lý vật chứng: tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số ma tuý đã thu giữ của bị cáo D; trả lại bị cáo số tiền 560.000đ; tịch thu sung ngân sách nhà nước chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Công an quận Hai Bà Trưng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Phương D không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 09/5/2019, tại khu vực trước số nhà 20 ngách 25 ngõ 54 Kim Ngưu, phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, bị cáo Nguyễn Phương D đã có hành vi tàng trữ trái phép 4,405 gam ma tuý loại Methamphetamine với mục đích để bán.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền kiểm soát và quản lý các chất ma tuý của nhà nước gây mất trật tự trị an, gây bất bình và tâm lý lo lắng trong nhân dân. Ma tuý đang là mối hiểm họa của toàn xã hội. Nhà nước đã có nhiều chính sách cương quyết tuyên truyền vận động đến chế tài xử lý nghiêm khắc mọi hành vi liên quan đến ma tuý. Bị cáo đang ở độ tuổi lao động và cống hiến nhưng không chịu lao động chân chính giúp ích cho bản thân gia đình và xã hội, hậu quả là phải đứng trước bục khai báo ngày hôm nay chịu sự xử lý của pháp luật. Tại phiên toà bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình theo bản cáo trạng và lời luận tội của Viện kiểm sát, do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Phương D phạm tội Mua bán trái phép chất ma tuý, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng truy tố và kết luận về hành vi phạm tội của bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nên cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và làm bài học, răn đe người khác.
[3] Xét nhân thân: bị cáo Nguyễn Phương D không có tiền án, tiền sự, đây là lần đầu bị truy tố xét xử. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[4] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự, bị cáo còn bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên toà thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Đối với người đàn ông tên Trung đã bán ma túy cho bị cáo và nam thanh niên tên Huy hỏi mua ma tuý của bị cáo: Do bị cáo không biết rõ nhân thân, địa chỉ cụ thể của họ, cơ quan điều tra đã truy tìm nhưng không xác định được, nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, xử lý là có cơ sở.
[6] Về xử lý vật chứng:
- Cơ quan điều tra đã thu giữ 4,405 gam ma tuý loại Methamphetamine - đây là chất độc hại, Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ.
- Về số tiền 560.000 đồng (năm trăm sáu mươi nghìn đồng) thu giữ của bị cáo D: xác định số tiền này do bị cáo lao động mà có, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.
- Về chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng lắp sim số 0962.356.585: xác định của bị cáo D, D sử dụng để liên lạc bán trái phép ma tuý, nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.
Bị cáo D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phương D phạm tội Mua bán trái phép chất ma tuý.
2. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Xử phạt: Nguyễn Phương D 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt là ngày 09/5/2019.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Phương D.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) bì giấy đã niêm phong bên trong có chứa 4,405 gam ma tuý loại Methamphetamine, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên và của Nguyễn Phương D.
- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (một ) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng, số imei: 013554007102404 (màn hình điện thoại bị vỡ).
Các vật chứng trên hiện đang bảo quản tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 05/8/2019 giữa Công an quận Hai Bà Trưng với Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng.
- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Phương D số tiền 560.000 đồng (năm trăm sáu mươi nghìn đồng) theo Giấy nộp tiền ngày 30/7/2019 do Công an quận Hai Bà Trưng nộp vào tài khoản số 394901049415 của Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng tại Kho bạc Nhà nước quận Hai Bà Trưng.
4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Buộc Bị cáo Nguyễn Phương D phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo Nguyễn Phương D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 166/2019/HS-ST ngày 06/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 166/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về