Bản án 166/2018/HS-ST ngày 26/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 166/2018/HS-ST NGÀY 26/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 165/2018/TLST-HS ngày 17 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 183/2018/QĐXXST-HS ngày14 tháng 9 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Lương B, sinh ngày 06 tháng 6 năm 1977 tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; chỗ ở: Thôn K, xã M, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương K và bà Nguyễn H; có vợ là Nông C và 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 28/02/2012, bị Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn xử phạt 02 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, án tích đã được xóa; bị bắt tạm giam từ ngày 05/6/2018 đến nay. Có mặt.

2. Lành T, sinh ngày 27 tháng 6 năm 1983 tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lành T và bà Hoàng V; có vợ là Hoàng T và 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2014; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/6/2018 đến nay. Có mặt.

Người chứng kiến: Ông Nguyễn D. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Lương B nghiện chất ma túy Heroin từ năm 2000 và thường xuyên mua ma túy về sử dụng. Khoảng 8 giờ 30 phút ngày 05/6/2018, bị cáo Lương B một mình đi bộ ra khu vực phía sau Bưu điện tỉnh Lạng Sơn, mua 19 gói ma túy với 01 người đàn ông tên Dương khoảng 35 tuổi với giá 950.000 đồng. Sau khi mua được ma túy bị cáo Lương B đi đến quán nước thuộc khu vực ngã tư đường Nguyễn Tri Phương - Nguyễn Du, phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn và cất giấu 19 gói ma túy trong 01 vỏ bao diêm nhặt được trên đường.

Bị cáo Lành T là người sử dụng ma túy từ tháng 02/2018. Khoảng 08 giờ 45 phút ngày 05/6/2018, bị cáo Lành T một mình điều khiển xe mô tô 12P1 - 6582, từ nhà đến quán nước thuộc khu vực ngã tư đường Nguyễn Tri Phương - Nguyễn Du, phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn. Đến khoảng 09 giờ ngày 05/6/2018, bị cáo Lành T đến quán nước và hỏi mua ma túy của bị cáo Lương B, với mục đích để sử dụng. Bị cáo Lương B đồng ý và bán cho bị cáo Lành T 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng. Khi hai bên vừa giao dịch mua bán ma túy xong thì bị Công an bắt quả tang. Thu giữ của bị cáo Lương B 18 gói giấy bên trong có chứa chất bột màu trắng đựng trong túi nilon và 02 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng; thu giữ của bị cáo Lành T 01 gói giấy bên trong chứa chất bột màu trắng và 01 xe mô tô Honda Wave biển kiểm soát 12P1 - 6582, đăng ký xe mang tên Lành T.

Tại bản kết luận giám định số 205/KL- PC54 ngày 07/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận:

- Chất bột màu trắng có trong 18 gói giấy thu của Lương B, gửi giám định đều là chất ma túy Heroine có khối lượng 0,823 gam.

- Chất bột màu trắng có trong 01 gói giấy thu của Lành T, gửi giám định là chất ma túy Heroine có khối lượng 0,101 gam.

Tại bản Cáo trạng số 163/CT-VKS ngày 16 tháng 8 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn đã truy tố truy tố bị cáo Lương B về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Lành T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Lương B và Lành T thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lương B phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo Lành T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ khoản 1 Điều 251, Điều 38, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lương B từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, Điều38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lành T từ 15 đến 18 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì qua xác minh các bị cáo không có tài sản để đảm bảo thi hành án.

Về xử lý vật chứng áp dụng điểm a, b khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì đựng mẫu vật chất ma túy; trả lại xe mô tô 12P1 - 6582 cho bị cáo Lành T; tịch thu số tiền 100.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 9 giờ 15 ngày 05/6/2018, tại khu vực ngã tư đường Nguyễn Tri Phương - Nguyễn Du, phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn, bị cáo Lương B đã có hành vi bán trái phép 01 gói chất ma túy Heroine có khối lượng 0,101 gam cho bị cáo Lành T với giá 100.000 đồng thì bị bắt quả tang. Thu giữ của bị cáo Lương B 18 gói ma túy Heroin có khối lượng 0,823 gam và 100.000 đồng. Thu giữ của bị cáo Lành T 01 gói ma túy Heroin có khối lượng 0,101 gam. Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Do đó, Viện kiểm sát truy tố truy tố bị cáo Lương B về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự và truy tố bị cáo Lành T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

 [3] Hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương, gây bất bình trong xã hội. Các bị cáo nhận thức rõ ma túy là chất gây nghiện, có tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe con người, là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện, do đó hành vi của các bị cáo phải được xử lý nghiêm trước pháp luật.

 [4] Về nhân thân: Các bị cáo đều là người nghiệt chất ma túy, không có nghề nghiệp ổn định. Bị cáo Lương B từng có 01 tiền án 02 năm tù về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (tại Bản án số 19/2012/HSST ngày 28/02/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn), tuy đến nay đã được xóa án tích nhưng điều đó thể hiện bị cáo là người coi thường pháp luật, khó giáo dục, cải tạo. Bị cáo Lành T có nhân thân tốt, lần phạm tội này là lần đầu.

 [5] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

 [6] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên toà cũng như trong quá trình điều tra, các bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, vì vậy các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Lương B có mẹ là bà Nguyễn H được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng nhì nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

 [7] Xét lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ và về mức hình phạt áp dụng đối với từng bị cáo và các vấn đề khác, Hội đồng xét xử sẽ xem xét quyết định.

 [8] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh thể hiện các bị cáo không có tài sản, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

 [9] Về xử lý vật chứng căn cứ điểm a, b khoản 2; điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Đối với 02 phong bì niêm phong đựng mẫu vật là chất ma túy còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy. Số tiền 100.000 đồng là do phạm tội mà có cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước; đối với xe mô tô 12P1 – 6582 là phương tiện kiếm sống của bị cáo, xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án nên trả lại cho bị cáo Lành T.

 [10] Đối với người đàn ông tên Dương đã bán ma túy cho bị cáo Lương B, do không biết lai lịch nên Cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được để xử lý trong vụ án.

 [11] Các bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Các bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lương B;

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lành T.

Căn cứ điểm a, b khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lương B phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo Lành T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Lương B 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 05/6/2018.

- Xử phạt bị cáo Lành T 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 05/6/2018.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì niêm phong đựng mẫu vật là chất ma túy (Heroine) còn lại sau giám định.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng).

- Trả lại cho Lành T 01 xe mô tô Honda Wave màu bạc trắng đen biển kiểmsoát 12P1 – 6582.

 (Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13 tháng 8 năm 2018. Số tiền100.000 đồng được gửi tại tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn theo Ủy nhiệm chi ngày 08 tháng 8 năm 2018 của Công an thành phố Lạng Sơn)

4. Về án phí: Bị cáo Lương B và Lành T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 166/2018/HS-ST ngày 26/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:166/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về