TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 165/2020/HS-ST NGÀY 21/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 161/2020/TLST-HS ngày 05 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa ra xét xử số 158/2020/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 10 năm 2020, đối với bị cáo:
Nguyễn Đức H, sinh năm 1984 (tên gọi khác Nguyễn Hữu H); đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Tổ X, phường N, thành phố Y, tỉnh Y; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa:
12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Nguyễn Văn Y (đã chết); họ tên mẹ: Lê Thị T, sinh năm 1946; gia đình có 05 anh chị em, bị cáo là con thứ năm; họ tên vợ: Vũ Thị T, sinh năm 1980; bị cáo có 01 con sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 38/2006/HSST ngày 21/04/2006 của Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái, xử phạt Nguyễn Hữu H (tức Nguyễn Đức H) 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/10/2006, đã xóa án tích.
Bị cáo bị bắt quả tang ngày 20/5/2020, tạm giữ từ ngày 21/5/2020 đến ngày 30/05/2020 chuyển tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 20 giờ 30 phút, ngày 20/5/2020, tổ công tác Công an xã Đa Tốn, thuộc Công an huyện Gia Lâm, Hà Nội làm nhiệm vụ tại khu vực Đào Xuyên, Đa Tốn, Gia Lâm, Hà Nội, kiểm tra phát hiện Nguyễn Đức H đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Đức H.
Vật chứng thu giữ của Nguyễn Đức H, gồm: 02 gói giấy bạc, trong đó: 01 gói chứa 04 gói giấy bạc màu trắng bên trong đều chứa chất bột màu trắng; 01 gói chứa 02 gói giấy bạc màu trắng bên trong đều chứa chất bột màu trắng; 01 điện thoại Nokia màu đen lắp sim số 0982680506, máy đã qua sử dụng, bị hỏng màn hình hiển thị.
Tại bản Kết luận giám định số 4061/KLGĐ-PC09 ngày 28/5/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 02 gói giấy bạc màu trắng là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng 0,086 gam; chất bột màu trắng bên trong 04 gói giấy bạc màu trắng là ma túy loại heroin, tổng khối lượng 0,252 gam.
Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lâm, Nguyễn Đức H khai nhận: Bản thân là đối tượng nghiện chất ma túy. Khoảng 19 giờ 00 ngày 20/5/2020, khi H đang ở quán nước ven đường tại khu vực ngã ba Kiêu Kỵ, Gia Lâm, Hà Nội thì có một người đàn ông không quen biết đi xe máy đến và bảo H mua 500.000 đồng ma túy để cùng sử dụng. H đồng ý và dùng số thuê bao 0982680506 gọi vào số thuê bao 0339898258 của Hưng (là bạn quen biết ngoài xã hội) để mua ma túy. Hưng đồng ý bán và hẹn giao ma túy tại cổng trường trung học cơ sở Đa Tốn, Gia Lâm, Hà Nội. Sau đó người đàn ông điều khiển xe máy chở H đi đến cổng trường trung học cơ sở Đa Tốn. Khi đến khu vực gần trường trung học cơ sở Đa Tốn, người đàn ông dừng xe, đưa 500.000 đồng cho H còn H đi bộ vào để mua ma túy. Khi đến nơi, H gặp và đưa 500.000 đồng cho một người phụ nữ không quen biết đứng ở gần cổng trường. Người phụ nữ cầm tiền và chỉ H sang vị trí đối diện Hưng đang đứng để lấy ma túy. H đến chỗ Hưng thì Hưng chỉ tay sang phía bên đường đối diện và nói “Qua bên đường thằng kia đưa”. Do vậy, H tiếp tục đi sang bên đường và gặp một nam thanh niên không quen biết. Người nam thanh niên chỉ tay vào hộp xốp nhỏ ở ven đường. H lật hộp xốp lên thì thấy có 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong có 02 gói giấy bạc gồm: 01 gói giấy bạc màu trắng có chứa 04 gói giấy bạc màu trắng bên trong đều chứa chất bột màu trắng; 01 gói giấy bạc màu trắng có chứa 02 gói giấy bạc màu trắng bên trong đều chứa chất bột màu trắng. H biết đó là ma túy nên cầm trong lòng bàn tay trái và đi bộ ra chỗ người đàn ông đưa tiền cho H mua ma túy đang đứng chờ. Khi đến gần khu vực ngã tư thôn Đào Xuyên, Đa Tốn, Gia Lâm, Hà Nội thì H bị lực lượng cơ quan công an yêu cầu kiểm tra. Do hoảng sợ, H đã thả gói ma túy đang cầm trong lòng bàn tay trái xuống đất. Gói ma túy rơi xuống, văng ra thành 02 gói giấy bạc màu trắng gồm: 01 gói giấy bạc màu trắng có chứa 04 gói giấy bạc màu trắng bên trong đều chứa chất bột màu trắng; 01 gói giấy bạc màu trắng có chứa 02 gói giấy bạc màu trắng bên trong đều chứa chất bột màu trắng. Sau đó H tự nguyện nhặt các gói ma túy lên giao nộp cho cơ quan công an và khai nhận đó là ma túy H vừa mua bằng tiền của một người đàn ông không quen biết đưa cho để cùng nhau sử dụng. Trong lúc cơ quan công an tiến hành kiểm tra H thì người đàn ông đã bỏ đi. Sau đó, Tổ công tác đã niêm phong thu giữ tang vật và đưa H về trụ sở để làm rõ.
Đối với người đàn ông đưa 500.000 đồng cho H để mua ma túy, hiện chưa làm rõ nhân thân nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lâm không có căn cứ để xử lý.
Đối với đối tượng Hưng là người mà H liên hệ để mua ma túy thì H không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, chỉ biết số điện thoại của Hưng là 0339898258. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lâm đã ra Lệnh thu giữ thư tín điện tín đối với số điện thoại 0339898258 để xác định chủ thuê bao và cuộc gọi đi, cuộc gọi đến của số điện thoại này đã gọi cho H ngày 20/05/2020 thì xác định được chủ thuê bao là chị Hà Thị Đ, sinh năm 1975; trú tại: xã X, huyện T, tỉnh P. Công an huyện Gia Lâm đã phối hợp với Công an xã X xuống nhà chị Đ để tiến hành ghi lời khai thì chị Đặng không có nhà, nhà chị Đ khóa trái cửa, hàng xóm và chính quyền địa phương không biết chị Đ đi đâu, làm gì. Cơ quan điền tra đã tiến hành thu giữ điện tín, xác minh, nhưng không làm rõ được, không có căn cứ xử lý.
Đối với các đối tượng đã bán ma túy cho H, hiện không xác định được nhân thân nên không có căn cứ xử lý.
Đối với chiếc điện thoại Nokia màu đen lắp sim số 0982680506, máy đã qua sử dụng, bị hỏng màn hình hiển thị, là điện thoại H dùng để liên lạc mua ma túy.
Tại bản Cáo trạng số 162/CT-VKSGL ngày 02 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo Nguyễn Đức H (tức Nguyễn Hữu H) về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm tham gia phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng; sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Đức H (tức Nguyễn Hữu H) từ 18 tháng đến 20 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/5/2020; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ số ma túy thu giữ của bị cáo; tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu đen có lắp sim liên lạc thu giữ của bị cáo.
Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội và tội danh:
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận:
Hồi 20 giờ 30 phút, ngày 20/5/2020, tại khu vực Đào Xuyên, Đa Tốn, Gia Lâm, Hà Nội, bị cáo Nguyễn Đức H đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy Heroine có khối lượng 0,338 gam để sử dụng thì bị cơ quan Công an kiểm tra bắt giữ cùng vật chứng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo:
[3.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Heroine là chất ma tuý rất độc hại, tàn phá và huỷ hoại sức khoẻ con người, là một trong những nguyên nhân chính phát sinh ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác trong đời sống xã hội. Trong những năm qua, tội phạm về ma tuý trên địa bàn thành phố Hà Nội diễn biến rất phức tạp, Nhà nước, các cấp chính quyền và Đoàn thể rất quan tâm và nỗ lực tuyên truyền, giáo dục về tác hại của ma tuý, kêu gọi toàn dân tích cực tham gia phòng chống tệ nạn về ma tuý và tội phạm may tuý. Bị cáo nhận thức được tác hại và hậu quả do ma tuý gây ra nhưng không tích cực phòng chống mà còn tàng trữ để sử dụng nên cần thiết phải xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và phòng ngừa chung; góp phần đấu tranh phòng chống tệ nạn và các tội phạm về ma tuý trong đời sống xã hội.
[3.2] Về nhân thân: Tại Bản án số 38/2006/HSST ngày 21/4/2006, Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái xử phạt Nguyễn Hữu H (tức Nguyễn Đức H) 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/10/2006, đã xóa án tích. Theo cung cấp của Công an phường Nguyễn Thái Học và lời khai nhận của bị cáo thì: Năm 2010, Nguyễn Đức H bị đi cai nghiện bắt buộc thời hạn 10 tháng tại Trường 2 Lâm Hà, Lâm Đồng; năm 2012, Nguyễn Đức H bị đi cai nghiện bắt buộc thời hạn 48 tháng tại Trại Phú Văn, Bình Phước, đều đã hết thời hiệu. Như vậy, thể hiện bị cáo có nhân thân xấu, đã được các cơ quan pháp luật giáo dục, cải tạo nhiều lần, khi trở về nơi cư trú không cố gắng rèn luyện bản thân, H nhập cộng đồng, mà lại tiếp tục phạm tội.
[3.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải; bố đẻ của bị cáo là ông Nguyễn Văn Yên được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba. Như vậy, bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. [3.4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Tổng hợp nhận định ở trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian bằng việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn để đảm bảo việc răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm tại phiên toà là phù hợp.
[3.5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên toà thể hiện: Bị cáo là người nghiện ma túy, không có việc làm, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.
Đối với 01 chiếc điện thoại di động Nokia màu đen có lắp sim liên lạc thu giữ của bị cáo là phương tiện liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.
[5] Về án phí: Bị cáo phạm tội phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
[7] Về các nội dung khác:
Đối với người đàn ông đưa 500.000 đồng cho H để mua ma túy, hiện chưa làm rõ nhân thân, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lâm không có căn cứ để xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với người tên Hưng là người mà H liên hệ để mua ma túy thì H khai không rõ nhân thân, lai lịch, Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không xác định được, không có căn cứ xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với các đối tượng đã bán ma túy cho H, hiện chưa làm rõ nhân thân, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lâm không có căn cứ để xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức H (tên gọi khác: Nguyễn Hữu H) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt:
2.1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H (tên gọi khác: Nguyễn Hữu H) 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/5/2020.
2.2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
3.1. Tịch thu, tiêu huỷ ma túy loại Heroine có khối lượng 0,296 gam (đã trích mẫu để giám định 0,042 gam) thu giữ của bị cáo Nguyễn Đức H, đựng trong 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Nguyễn Đức H và Giám định viên, do Phòng PC09-Công an thành phố Hà Nội hoàn lại sau giám định.
3.2. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại Nokia màu đen, bên trong có lắp sim, máy đã qua sử dụng, bị hỏng màn hình hiển thị thu giữ của bị cáo Nguyễn Đức H.
(tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm ngày 09/10/2020).
4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo.
Bị cáo Nguyễn Đức H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 165/2020/HS-ST ngày 21/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 165/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/10/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về