Bản án 164/2018/HS-ST ngày 26/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 164/2018/HS-ST NGÀY 26/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 168/2018/TLST-HS ngày 28 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 176/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Trình A K, sinh ngày 07/10/1972 tại Lạng Sơn.

Nơi cư trú: Tổ 4, khối 3, đường N, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Không; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trình Bảo S (đã chết) và bà Nông Thị K; vợ: Hoàng Thị A; con: Có 02 con, con lớn 18 tuổi, con nhỏ 16 tuổi; nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự; bị bắt tạm giữ ngày 25/6/2018, tạm giam ngày 28/6/2018 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Tiến P, sinh năm 1961. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 45 phút ngày 25/6/2018, Tổ công tác Công an thành phố L, tỉnh Lạng Sơn làm nhiệm vụ tại khu vực đầu cầu 17/10 thuộc đường B, mphường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn bắt quả tang Trình A K có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trong người Trình A K 01 vỏ bao thuốc lá Sài Gòn bên trong có 01 túi Nilon chứa chất tinh thể màu trắng và 01 ống Novocain.

Tại kết luận giám định số 255/KL-PC54 ngày 28/6/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất tinh thể màu trắng gửi giám định là chất ma túy Methamphetamine có khối lượng 0,351 gam.

Tại bản Cáo trạng số 167/KSĐT ngày 27 tháng 8 năm 2018, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Trình A K về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Trình A K khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 14 giờ 30 phút ngày 25/6/2018 Trình A K đến khu vực chợ Đ, đường N, phường V, thành phố L để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây Trình A K mua với một người đàn ông không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể 01 túi Nilon ma túy tổng hợp dạng tinh thể với giá 50.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Trình A K cất vào vỏ bao thuốc lá hiệu Sài Gòn rồi tìm nơi sử dụng thì bị Công an thành phố L phát hiện, bắt giữ.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên nội dung quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trình A K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trình A K từ 12 đến 15 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo không có nghề nghiệp và không có tài sản để đảm bảo thi hành án. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong đựng mẫu vật là chất ma túy còn lại sau giám định và 01 ống Novocain. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện Kiểm sát và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Trình A K tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng và những chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ căn cứ để xác định: Khoảng 14 giờ 45 phút ngày 25/6/2018, tại khu vực đầu cầu 17/10 thuộc đường B, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, Công an thành phố L phát hiện, bắt quả tang Trình A K tàng trữ trái phép trong người 01 gói chất ma túy.

Tại kết luận giám định số 255/KL-PC54 ngày 28/6/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất tinh thể màu trắng thu gữ của Trình A K là chất ma túy Methamphetamine có khối lượng 0,351 gam. Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Trình A K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Bản Cáo trạng số 167/KSĐT ngày 27 tháng 8 năm 2018 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Trình A K về tội danh và điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo biết sử dụng ma túy có tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe, tiêu tốn về kinh tế; ma túy còn là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác; nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do vậy, hành vi của bị cáo cần phải bị xử lý trước pháp luật.

[4] Để có căn cứ quyết định hình phạt, ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, cần xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

[5] Về nhân thân, và tình tiết tăng nặng: Bản thân bị cáo là người không có trình độ học vấn, do vậy nhận thức về pháp luật có phần hạn chế. Bị cáo không có tiền án, tiền sự; không có tình tiết tăng nặng. Hiện bị cáo đang mắc bệnh hiểm nghèo.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; vì vậy bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[7] Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, yếu tố về nhân thân, chỉ cần xét xử bị cáo mức án đầu khung hình phạt đã truy tố cũng có tác dụng giáo dục bị cáo và răng đe, phòng ngừa chung. Điều này thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với bị cáo, để bị cáo an tâm cải tạo, sớm trở lại hòa nhập với cộng đồng.

[8] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh ngày 06/8/2018 xác định: Bị cáo Trình A K không có nghề nghiệp và không có tài sản để đảm bảo thi hành án, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy còn lại sau giám định được đựng trong 01 gói đã niêm phong; 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Sài Gòn, bên trong có 09 điều thuốc lá và 01 lọ Novocain chưa qua sử dụng, đây là vật Nhà nước cấm lưu hành, vật không có giá trị sử dụng, vì vậy căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

[10] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước theo khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[11] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Trình A K, do bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ để xử lý trong vụ án.

[12] Đối với đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố L về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo và các vấn đề khác khi giải quyết vụ án là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[13] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trình A K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trình A K 01 (một) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 25/6/2018. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được đựng trong 01 gói đã niêm phong; 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Sài Gòn, bên trong có 09 điều thuốc lá và 01 lọ Novocain chưa qua sử dụng.

(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 28 tháng 8 năm 2018).

4. Về án phí: Bị cáo Trình A K phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung Ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 164/2018/HS-ST ngày 26/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:164/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về