Bản án 163/2020/DS-PT ngày 20/08/2020 về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 163/2020/DS-PT NGÀY 20/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 20 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số: 136/2020/TLPT –DS ngày 16 tháng 6 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng tín dụng”. Do bản án dân sự sơ thẩm số 05/2020/DS-ST ngày 04/03/2020 của Tòa án nhân dân huyện Gò D, tỉnh Tây Ninh bị kháng cáo.Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 177/2020/QĐXXPT-DS ngày 25 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1956 và bà Võ Thị H, sinh năm 1956; Nơi cư trú: Ấp Xóm Đ, xã Thanh P, huyện Gò D, tỉnh Tây Ninh; có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1975; Nơi cư trú: Ấp Xóm Đ, xã Thanh P, huyện Gò D, tỉnh Tây Ninh; có đơn xin xét xử vắng mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ngân hàng TH mại Cổ phần Quốc tế Việt Nam (tên viết tặt VIB); địa chỉ trụ sở: tầng 1 và tầng 2, Tòa nhà Salling Tower, số 11A, đường Pasteur, phường Bến Nghé, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Hàn Ngọc V – Chức vụ: Tổng giám đốc

Người đại diện theo ủy quyền thường xuyên: Bà Trần Thị Thu H – Chức vụ: Giám đốc Trung tâm Quản lý nợ khách Hàng cá nhân, khối quản trị rủi ro VIB.

Người đại diện theo ủy quyền lại: Bà Nguyễn Thu H, ông Nguyễn Ngọc A, ông Phan Văn PH; tất cả đều là Chuyên viên phòng xử lý nợ khách hàng cá nhân Miền Nam, khối quản trị rủi ro.

Địa chỉ: Lầu 6, số 26, đường Ung Văn Khiêm, phường 25, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh; có đơn xin xét xử vắng mặt.

3.2. Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1982;

3.3. Chị Nguyễn Thị Thúy L, sinh năm 1983;

3.4. Chị Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1982;

3. 5. Anh Danh D, sinh năm 1979;

3.6. Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1968;

3.7. Bà Huỳnh Thị Xâm, sinh năm 1973.

Cùng nơi cư trú: Ấp Xóm Đ, xã Thanh P, huyện Gò D, tỉnh Tây Ninh; có đơn xin xét xử vắng mặt.

4. Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn N, bà Võ Thị H, bị đơn ông Nguyễn Văn S, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Ngân Hàng TMCP Quốc tế Việt Nam, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn ông Nguyễn Văn N trình bày: Vợ chồng ông và anh S có ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, giấy không ghi ngày nhưng ông nhớ ngày ký là ngày 25-02-2017. Theo đó, anh S chuyển nhượng cho vợ chồng ông 01 phần có diện tích 520 m2 (ngAg 8 mét, dài 65 mét), đất thuộc 01 phần thửa số 1084 tờ bản đồ số 21, cùng căn nhà trên đất tọa lạc tại ấp Xóm Đ, xã Thanh P, huyện Gò D. Giá chuyển nhượng là 400.000.000 đồng cả đất và nhà. Đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do anh S đứng tên. Vợ chồng ông đưa trước cho anh S 240.000.000 đồng, hẹn 03 tháng sau khi hoàn tất thủ tục S tên, vợ chồng ông trả hết số tiền còn lại 160.000.000 đồng. Anh S chỉ đưa bản phô tô giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông. Ngày 05-3-2017, Anh S giao đất và nhà cho vợ chồng ông sử dụng đến nay, hiện vợ chồng ông cùng vợ chồng con gái ông là chị Nguyễn Thị Kim C và Anh Danh D đang sinh sống tại căn nhà này.

Đến 3 tháng sau, tức tháng 5-2017, vợ chồng ông không có tiền trả nên có thoả thuận với anh S là anh S đem thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất mà hai bên đã thỏa thuận chuyển nhượng để vay tiền Ngân hàng, vợ chồng ông trả lãi cho Anh S trên số tiền còn nợ lại là 160.000.000 đồng.

Đồng thời, hai bên thống nhất kéo dài hợp đồng thêm 01 năm tức đến năm tháng 5- 2018; Cùng thời điểm này, vào ngày 23-5-2018 ông có nhờ trưởng ấp Xóm Đ ký xác nhận vào hợp đồng. Sau đó, vợ chồng ông trả lãi cho anh S từ tháng 4- 2017 đến tháng 3-2018 là 12 tháng, mỗi tháng 1.500.000 đồng. Tổng cộng 18.000.000 đồng và 10.000.000 đồng vợ chồng ông đưa cho Anh S để đáo hạn Ngân hàng vào tháng 3-2018. Tổng cộng các khoản là 28.000.000 đồng.

Đến tháng 5-2018, vợ chồng ông vẫn không có tiền để trả cho Anh S nên 02 bên tiếp tục thỏa thuận kéo dài hợp đồng thêm 01 năm nữa. Từ tháng 4-2018 đến tháng 3-2019 vợ chồng ông trả lãi cho Anh S 18.000.000 đồng và tiền đáo hạn là 10.000.000 đồng. Tổng cộng là 28.000.000 đồng. Ngoài ra, ông còn đưa cho Anh S thêm các khoản tiền khác nữa nhưng ông không có yêu cầu. Như vậy, tổng các khoản ông đưa cho Anh S qua các lần thỏa thuận kéo dài hợp đồng là 56.000.000 đồng.

Tất cả các lần vợ chồng ông giao tiền cho Anh S đều không làm giấy tờ gì, cũng không ai biết, vợ chồng ông chỉ tự ghi vào sổ theo dõi.

Từ tháng 5-2019, đến tháng 7-2019 vợ chồng ông không nói gì với Anh S về việc chuyển nhượng đất cũng như không trả tiền lãi cho Anh S. Đến ngày 22- 7-2019, vợ chồng ông có tiền trả cho Anh S và yêu cầu Anh S làm thủ tục chuyển nhượng thì Anh S không đồng ý, từ đó hai bên phát sinh tranh chấp cho đến nay.

Nay ông yêu cầu Anh S có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đối với phần đất 462,4 m2, các chênh lệch diện tích đất giữa thực tế và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giữa Anh S và Anh em Anh S, ông yêu cầu Anh S có nghĩa vụ điều chỉnh để hoàn tất thủ tục S tên cho ông. Vợ chồng ông có nghĩa vụ trả lại cho Anh S 160.000.000 đồng tiền còn nợ lại chưa Thanh toán. Phần 56.000.000 đồng xem như vợ chồng ông trả lãi chậm thực hiện nghĩa vụ trên số nợ còn thiếu lại là 160.000.000 đồng, vợ chồng ông không yêu cầu giải quyết. Đối với việc Anh S thế chấp cho Ngân hàng TH mại Cổ phần Quốc tế Việt Nam (sau đây viết tắt là Ngân hàng) giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất đã chuyển nhượng cho ông là không đúng nên ông không đồng ý với việc thế chấp này.

Trường hợp Tòa tuyên bố hợp đồng vô hiệu, ông yêu cầu Anh S có nghĩa vụ trả lại cho vợ chồng ông số tiền 240.000.000 đồng tiền vợ chồng ông đưa trước và tiền lãi là 56.000.000 đồng mà Anh S đã nhận. Đồng thời, bồi thường cho vợ chồng ông 240.000.000 đồng. Tổng cộng là 536.000.000 đồng. Vợ chồng ông và các con có nghĩa vụ di dời nhà đi nơi ở mới và giao trả lại đất cho Anh S trong hạn 04 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Nguyên đơn bà Võ Thị H trình bày: Bà thống nhất theo lời trình bày và yêu cầu của chồng bà là ông Nguyễn Văn N và không có ý kiến gì thêm.

Bị đơn Anh Nguyễn Văn S trình bày: Phần lớn lời trình bày của ông N là đúng. Chỉ có việc giao kết hợp đồng là vào đầu năm 2017, lúc đầu bằng 02 bản giấy tay mỗi bên giữ 01 bản. Sau đó ông N mượn lại giấy của Anh để đăng ký hộ khẩu và không trả lại. Sau đó 02 bên mới ký giấy không ghi ngày như lời ông N trình bày. Anh có nhận 240.000.000 đồng tiền ông N trả trước và 18.000.000 đồng tiền lãi vợ chồng ông N trả trong 01 năm đầu, các khoản còn lại Anh không có nhận.

Theo yêu cầu của ông N Anh không đồng ý, Anh yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Anh trả cho vợ chồng ông N 240.000.000 đồng, trong đó có khấu trừ phần lãi mà Anh đã trả Ngân hàng thay cho vợ chồng ông N là 1.500.000 Đ/tháng x 24 tháng = 36.000.000 đồng. Như vậy, số tiền còn lại trả cho vợ chồng ông N là 204.000.000 đồng. Số tiền 18.000.000 đồng, Anh đã chi phí cho việc làm thủ tục vay tiền nên Anh không đồng ý trả lại vợ chồng ông N.

Đối với hợp đồng vay tài sản và hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất giữa Anh với Ngân hàng có liên quan đến 01 phần diện tích đất mà Anh chuyển nhượng cho vợ chồng ông N, Anh vay và thế chấp đúng quy định và không có vi phạm hợp Đ. Anh yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Anh Nguyễn Văn Q trình bày: Anh là em của Anh S. Việc Anh S chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông N, trong đó có 129,4 m2 Anh được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và 8,3 m2 Anh đang sử dụng nhưng Anh S được cấp giấy. Anh yêu cầu giữ nguyên giấy Anh được cấp và không đồng ý việc Anh S chuyển nhượng cho vợ chồng ông N phần diện tích 129,4 m2, cũng như Anh không đồng ý dùng diện tích 129,4 m2 ưu tiên Thanh toán để thực hiện nghĩa vụ trả nợ của Anh S cho Ngân hàng trong trường hợp Anh S không trả được nợ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Thúy L trình bày:

Chị thống nhất theo lời trình bày của chồng chị là Anh Q.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn N trình bày: Phần đất Anh S thế chấp cho Ngân hàng có 2,6 mét ngAg, dài hết đất ông đang quản lý sử dụng (là ½ căn nhà cấp 4 cùng các công trình phụ của ông tọa lạc trên đất). Ông không đồng ý tháo dỡ tài sản trên đất để giao lại quyền sử dụng đất cho Anh S trong trường hợp phần đất này phải phát mãi để trả nợ cho Ngân hàng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Huỳnh Thị Xâm trình bày: Bà là vợ của ông N, bà thống nhất theo lời trình bày và yêu cầu của ông N.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Kim C trình bày: Chị là con của ông N và bà H, hiện chị cùng chồng là Anh D đang sống cùng cha mẹ tại phần tài sản có tranh chấp. Vợ chồng chị chỉ sống nhờ cha mẹ, mọi việc liên quan đến vụ kiện do cha mẹ chị có ý kiến và quyết định, chị thống nhất theo lời trình bày của cha mẹ và không có ý kiến gì thêm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Anh Danh D trình bày: Anh là chồng của chị C, Anh thống nhất theo lời trình bày và yêu cầu của chị C.

Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam ông Nguyễn Ngọc A trình bày: Vào ngày 28-8- 2019, VIB C nhánh Tây Ninh có ký với Anh Nguyễn Văn S hợp đồng tín dụng số 6730718. Theo đó, Ngân hàng cho Anh S vay số tiền 600.000.000 đồng với thời hạn vay là 12 tháng, mục đích vay để bổ sung vốn kinh doanh mủ cao su, lãi trong hạn 10,4%/năm. Cùng ngày 28-8-2019, giữa Ngân hàng và Anh S có ký 01 hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 9910540. Theo đó, Anh S thế chấp cho Ngân hàng quyền sử dụng phần đất diện tích 964,7 m2 thuộc thửa đất số 1084 tờ bản đồ số 21, có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Anh S đứng tên, được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Tây Ninh cấp ngày 09-7-2015, số CS 02076. Ngoài ra, vào ngày 27-8-2019 Anh S cũng đã thế chấp cho Ngân hàng tài sản gắn liền với đất cùng tài sản hình tH trên đất trong tương lai, theo hợp đồng thế chấp số 830931419.

Khi cho Anh S vay và nhận thế chấp tài sản Ngân hàng đã thực hiện đúng các trình tự thủ tục khi cho Anh S vay; Đồng thời Ngân hàng không biết được thông tin Anh S đã chuyển nhượng 01 phần quyền sử dụng đất cùng tài sản gắn liền với đất trước đó cho ông N và bà H.

Về thẩm định tài sản thế chấp của Ngân hàng là đúng quy định của pháp luật. Việc tranh chấp có liên quan đến tài sản thế chấp, do Anh S không cung cấp thông tin cho Ngân hàng nên Ngân hàng biết và không có lỗi trong trường hợp này.

Ngày 26-9-2019, Ngân có gửi thông báo số 8852.19 yêu cầu Anh S trả hết nợ trước hạn do tài sản thế chấp đang có tranh chấp, nhưng đến nay Anh S vẫn không trả theo yêu cầu của Ngân hàng. Nay tài sản thế chấp thuộc đối tượng có tranh chấp và ảnh hưởng đến quyền lợi của Ngân hàng, nằm trong trường hợp ngân có quyền yêu cầu khách hàng giải quyết toàn bộ số nợ dù chưa đến hạn và khách hàng phải trả lãi quá hạn cho Ngân hàng kể từ khi Ngân hàng thông báo thu hồi nợ (điểm a, b khoản 4.3 Điều 4 của hợp đồng tín dụng).

Trong cả 02 trường hợp Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Anh S với vợ chồng ông N vô hiệu hay có hiệu lực pháp luật, Ngân hàng vẫn yêu cầu Anh S có nghĩa vụ trả tiền vốn là 600.000.000 đồng. Đối với phần lãi Anh S đã trả đến ngày 31-01-2020 nên Ngân hàng yêu cầu Anh S trả lãi tiếp theo từ ngày 01-02-2020 cho đến ngày Tòa án xét xử vụ án với mức lãi suất là 15,6%/năm là 8.173.151 đồng. Đây là mức lãi suất nợ quá hạn do Anh S vi phạm thời giA thu hồi vốn trước hạn theo thông báo ngày 26-9-2019 mà Ngân hàng gửi cho Anh S. Tổng cộng vốn lãi là 608.173.151 đồng. Phần lãi được tiếp tục tính cho đến khi Ngân hàng thu hồi hết nợ. Phần tài sản thế chấp được ưu tiên Thanh toán để thực hiện nghĩa vụ và phát mãi để trả nợ của Anh S đối với Ngân hàng.

Bản án số 05/2020/HànGĐ-ST ngày 04-3-2020 của Tòa án nhân dân huyện Gò D, tỉnh Tây Ninh:

Căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 117, 122, 123, 131, 318, 501, 502 và 503 của Bộ luật Dân sự; các Điều 167 và 188 của Luật Đất đai; Điều 91 của Luật Các tổ chức tín dụng; Điều 4 của Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính phủ quy định về giao dịch bảo đảm và khoản 2 Điều 1 Nghị định 11/2012/NĐ-CP ngày 22-02-2012 của Chính phủ sửa đổi bổ sung Nghị định 163; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 26, khoản 3 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn N và bà Võ Thị H đối với Anh Nguyễn Văn S.

Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không ghi ngày giữa ông Nguyễn Văn N và bà Võ Thị H đối với Anh Nguyễn Văn S vô hiệu.

2. Buộc Anh Nguyễn Văn S có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Văn N và bà Võ Thị H số tiền đã nhận là 258.000.000 đồng và bồi thường thiệt hại số tiền 46.612.800 đồng. Tổng cộng 02 khoản là 304.612.800 đồng (ba trăm lẻ bốn triệu, sáu trăm mười hai ngàn, tám trăm đồng).

3. Buộc ông Nguyễn Văn N và bà Võ Thị H có nghĩa vụ trả lại cho Anh Nguyễn Văn S phần đất có diện tích 462,4 m2; Tứ cận Đông giáp thửa 1083 dài 59,68 mét, Tây giáp thửa 1084 dài 56,62 mét, Nam giáp đường nhựa dài 8 mét, Bắc giáp thửa 408 dài 8,42 mét cùng tài sản trên đất là 01 căn nhà tường cấp 4c diện tích 109,2 m2 (5,2 m x 21 m), 01 mái che diện tích 32,76 m2 (5,2 m x 6,3 m) và 01 chuồng heo diện tích 23,78 m2 (4,1 m x 5,8 m). Tài sản tọa lạc tại ấp Xóm Đ, xã Thanh P, huyện Gò D, tỉnh Tây N.

4. Buộc ông Nguyễn Văn N và bà Võ Thị H cùng chị Nguyễn Thị Kim C và Anh Danh D có nghĩa vụ di dời đi nơi ở mới và giao trả lại quyền sử dụng đất cùng tài sản trên đất cho Anh S trong hạn 04 (bốn) tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

5. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam đối với Anh Nguyễn Văn S về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.

Buộc Anh Nguyễn Văn S có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam 600.000.000 đồng tiền vốn và 5.437.800 đồng tiền lãi tính đến ngày 04-3-2020, tổng cộng 605.437.800 đồng. Phần lãi được tiếp tục tính theo hợp đồng tín dụng số 6730718 19, ngày 28-8-2019 giữa Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam và Anh Nguyễn Văn S cho đến khi Anh Nguyễn Văn S trả hết nợ

6. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam đối với Anh Nguyễn Văn S về phần lãi suất với số tiền yêu cầu là 2.394.110 đồng.

7. Tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 9910540 19, ngày 28- 8-2019 và hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất cùng tài sản hình tH trên đất trong tương lai số 8309314 19, ngày 27-8-2019 giữa Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam và Anh Nguyễn Văn S là vô hiệu. Buộc Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam có nghĩa vụ trả lại cho Anh S 01 bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS02076, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Tây Ninh cấp cho Anh Nguyễn Văn S đứng tên ngày 09-7-2015, với diện tích được cấp là 964,7 m2. Toàn bộ tài sản thế chấp theo 02 hợp đồng nói trên không được ưu tiên Thanh toán để thực hiện nghĩa vụ trả nợ của Anh S đối với Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 18-3-2020, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB) có đơn kháng cáo đề nghị công nhận giao dịch thế chấp giữa Ngân hàng với ông Nguyễn Văn S có hiệu lực pháp luật. Buộc ông Nguyễn Văn S phải trả cho Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam số tiền 608.173.151 đồng.

Ngày 19-3-2020, nguyên đơn ông Nguyễn Văn N, bà Võ Thị H kháng cáo yêu cầu sửa án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn. Trường hợp hợp đồng vô hiệu thì Anh S phải có trách nhiệm Thanh toán cho ông N, bà H 366.763.200 đồng.

Ngày 19-3-2020, bị đơn ông Nguyễn Văn S kháng cáo yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông N với ông S là vô hiệu, ông S chỉ đồng ý trả cho ông N, bà H số tiền 204.000.000 đồng và buộc ông N, bà H di dời ra khỏi nhà đất ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Ngày 30-3-2020,Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh kháng nghị đề nghị sửa bản án sơ thẩm số 05/2020/DS-ST ngày 04-3-2020 của Tòa án nhân dân huyện Gò D, tỉnh Tây Ninh theo thủ tục phúc thẩm.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh phát biểu ý kiến:

+ Về tố tụng: Thẩm phán và Hội Đồng xét xử đã thực hiện đúng theo thủ tục tố tụng dân sự, các đương sự tham gia tố tụng trong vụ án chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

+ Về nội dung: Nguyên đơn rút đơn khởi kiện, bị đơn đồng ý. Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập rút đơn kháng cáo và ông S đã trả tất toán trước hạn cho Ngân hàng. Viện kiểm sát rút kháng nghị đề nghị Hội Đồng xét xử: Đình chỉ hủy một phần Bản án sơ thẩm và sửa một phần Bản án sơ thẩm. Ghi nhận ông S đã trả tất nợ cho Ngân hàng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến đại diện Viện kiểm sát, Hội Đồng xét xử nhận định:

[1] Về quA hệ tranh chấp: Ông Nguyễn Văn N, bà Võ Thị H tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với Anh Nguyễn Văn S, ngoài ra trong vụ án này có tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam với Anh Nguyễn Văn S. Cấp sơ thẩm xác định quA hệ tranh chấp vụ án là “tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” là chưa đầy đủ theo quy định tại Điều 26 và Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, cần xác định lại quA hệ tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng tín dụng”. Nên cấp phúc thẩm điều chỉnh lại cho đúng quy định của pháp luật.

[2] Về tố tụng: Ông Nguyễn Văn N, bà Võ Thị H, Anh Nguyễn Văn S, đại diện Ngân hàng TH mại cổ phần Quốc tế VIB có đơn xin xét xử vắng mặt.

Căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội Đồng xét xử tiến H xét xử vụ án.

[3] Ngày 20/7/2020 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Ngân hàng VIB rút đơn kháng cáo. Ngày 30/7/2020 nguyên đơn ông Nguyễn Văn N, bà Võ Thị H rút đơn khởi kiện, rút đơn kháng cáo, bị đơn Anh Nguyễn Văn S rút đơn kháng cáo và đồng ý rút đơn khởi kiện của ông N, bà H.

Việc nguyên đơn rút khởi kiện, bị đơn đồng ý việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn . Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập rút đơn kháng cáo và ông S đã trả tất toán trước hạn cho Ngân hàng và trả cho ông N, bà H số tiền 304.000.000 đồng (ba trăm lẻ bốn triệu đồng) là hoàn toàn tự nguyện, không ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của người khác. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh rút kháng nghị.

[4] Xét thấy đề nghị của đại viện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh đình chỉ hủy một phần Bản án sơ thẩm và sửa một phần Bản án sơ thẩm. Ghi nhận ông S đã trả tất nợ cho Ngân hàng là có căn cứ .

[5] Từ những phân tích, hủy một phần bản án dân sự sơ thẩm và sửa một phần Bản án số: 05/2020/ DS-ST ngày 04-3-2020 của Tòa án nhân dân huyện Gò D, tỉnh Tây Ninh và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thụ lý số:

136/2020/TLPT- DS ngày 16 tháng 6 năm 2020 về việc “ Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp hợp đồng tín dụng” .

[6] Về chi phí thẩm định và định giá tài sản: Căn cứ Điều 165 Bộ luật tố tụng dân sự: Ông Nguyễn Văn N và bà Võ Thị H phải chịu 11.900.000 đồng (mười một triệu chín trăm nghìn đồng) tiền chi phí thẩm định và định giá tài sản. Ngân hàng phải chịu 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) tiền chi phí thẩm định và định giá tài sản. Ghi nhận ông N đã nộp tạm ứng 11.900.000 đồng (mười một triệu chín trăm nghìn đồng), Ngân hàng đã nộp tạm ứng 2.000.000 (hai triệu đồng) và đã C xong.

[7] Về án phí:

[7.1] Án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 6 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Anh Nguyễn Văn S, Ngân hàng phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Ông Nguyễn Văn N, bà Võ Thị H là người cao tuổi được miễn án phí dân sự sơ thẩm.

[7.2] Về án phí phúc thẩm: Căn cứ khoản 6 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Anh Nguyễn Văn S, Ngân hàng phải chịu 50% tiền án phí dân sự phúc thẩm, Ngân.

Ông Nguyễn Văn N, bà Võ Thị H là người cao tuổi được miễn tiền án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 299 và Điều 311 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ Khoản 4 Điều 29 Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Hủy đình chỉ một phần Bản án dân sự sơ thẩm và sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số: 05/2020/ DS-ST ngày 04-3-2020 của Tòa án nhân dân huyện Gò D, tỉnh Tây Ninh và đình chỉ giải quyết một phần vụ án dân sự thụ lý số: 136/2020/TLPT- DS ngày 16 tháng 6 năm 2020 về việc “ Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1956 và bà Võ Thị H, sinh năm 1956; cùng địa chỉ: Ấp Xóm Đ, xã Thanh P, huyện Gò D, tỉnh Tây N.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1975; địa chỉ: Ấp Xóm Đ, xã Thanh P, huyện Gò D, tỉnh Tây Ninh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ngân hàng TH mại Cổ phần Quốc tế Việt Nam (tên viết tặt VIB); địa chỉ trụ sở: tầng 1 và tầng 2, Tòa nhà Salling Tower, số 11A, đường Pasteur, phường Bến Nghé, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Hàn Ngọc V – Chức vụ: Tổng giám đốc Người đại diện theo ủy quyền thường xuyên: Bà Trần Thị Thu H – Chức vụ: Giám đốc Trung tâm Quản lý nợ khách hàng cá nhân, khối quản trị rủi ro VIB.

Người đại diện theo ủy quyền lại: Bà Nguyễn Thu H, ông Nguyễn Ngọc A, ông Phan Văn PH; tất cả đều là Chuyên viên phòng xử lý nợ khách hàng cá nhân Miền Nam, khối quản trị rủi ro.

Địa chỉ: Lầu 6, số 26, đường Ung Văn Khiêm, phường 25, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.

2. Ghi nhận Anh Nguyễn Văn S đã trả cho Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam số tiền 601.568.219 đồng (Sáu trăm lẻ một triệu, năm trăm sáu mươi tám ngàn, hai trăm mười chín đồng) và tất toán khoản vay tại VIB.

3. Về chi phí thẩm định và định giá tài sản: Căn cứ Điều 165 Bộ luật tố tụng dân sự: Ông Nguyễn Văn N và bà Võ Thị H phải chịu 11.900.000 đồng (mười một triệu chín trăm nghìn đồng) tiền chi phí thẩm định và định giá tài sản. Ngân hàng phải chịu 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) tiền Chi phí thẩm định và định giá tài sản. Ghi nhận ông N đã nộp tạm ứng 11.900.000 đồng (mười một triệu chín trăm nghìn đồng), Ngân hàng đã nộp tạm ứng 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) và đã C xong.

4/ Về án phí:

4. 1 Án phí DSST:

Anh Nguyễn Văn S phải chịu 30.548.152 đồng (ba mươi triệu năm trăm bốn mươi tám nghìn một trăm năm mươi hai đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Ghi nhận Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam đã nộp tiền tạm ứng án phí 14.505.500 đồng nên được khấu trừ. Hoàn trả Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam 14.085.500 đồng (mười bốn triệu không trăm tám mươi lăm nghìn năm trăm đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0009719 ngày 07-10-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò D.

4.2 Án phí DSPT: Anh Nguyễn văn S phải chịu 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng) tiền án phí dân sự phúc thẩm. Ghi nhận anh Nguyễn văn S đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nên được khấu trừ. Hoàn trả lại cho anh S 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0000254 ngày 19-3-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò D, tỉnh Tây N.

Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam chịu 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Ghi nhận Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nên được khấu trừ. Hoàn trả Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0000259 ngày 27-3-2020 của Chi cục Thi Hành án dân sự huyện Gò D, tỉnh Tây Ninh.

5. Trường hợp bản án được Thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được Thi hành án dân sự, người phải Thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận Thi hành án, quyền yêu cầu Thi hành án, tự nguyện Thi hành án hoặc bị cưỡng chế Thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

367
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 163/2020/DS-PT ngày 20/08/2020 về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:163/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tây Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về