Bản án 163/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 163/2019/HS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm Vũ Thành C khai vụ án hình sự thụ lý số: 156/2019/HS-ST ngày 06/11/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 157/2019/QĐXXST-HS ngày 14/11/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Thành C, sinh năm: 1983, Nơi ĐKHKTT: số nhà 31, đường V, phố B, phường N, thành phố N, tỉnh N; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hóa lớp: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Vũ Quang V và con bà: Nguyễn Thị N; Vợ: Đinh Thị Thu H, con: có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm: 2017. Tiền án,Tiền sự: không.

Nhân thân:

- Ngày 19/12/2012, Vũ Thành C an phường N, thành phố N ra quyết định số 32 xử lý vi phạm hành chính phạt tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Chưa chấp hành khoản tiền phạt.

- Ngày 21/01/2013, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố N ra quyết định số 102 đưa vào Cơ sở chữa bệnh thời hạn 24 tháng. - Ngày 25/07/2015, phòng cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Vũ Thành C an tỉnh N ra quyết định số 200 xử lý vi phạm hành chính phạt tiền 500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Đã thi hành khoản tiền phạt.

- Ngày 30/9/2015, Vũ Thành C an phường T, thành phố N ra quyết định số 60 xử lý vi phạm hành chính, phạt tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Đã thi hành khoản tiền phạt.

- Ngày 16/10/2015, Vũ Thành C an phường N, thành phố N ra quyết định số 74 xử lý vi phạm hành chính phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản. Chưa thi hành khoản tiền phạt.

- Ngày 23/10/2015, phòng cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Vũ Thành C an tỉnh N ra quyết định số 233 xử lý vi phạm hành chính, phạt cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

- Ngày 09/11/2015, Vũ Thành C an thành phố N ra quyết định số 59 xử lý vi phạm hành chính, phạt tiền 750.000 đồng về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”. Chưa thi hành khoản tiền phạt.

- Ngày 13/11/2015, Vũ Thành C an phường N, thành phố N ra quyết định số 78 xử lý vi phạm hành chính phạt tiền 750.000 đồng về hành vi “ sử dụng trái phép chất ma túy”. Chưa thi hành khoản tiền phạt.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/09/2019 đến ngày 15/09/2019 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Vũ Thành C an tỉnh N cho đến nay, có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Ông Vũ Quang V, sinh năm: 1957

Địa chỉ: phố B, phường N, thành phố N, tỉnh N. có mặt.

Người chứng kiến:

- Anh Phạm Tiến T, sinh năm 1962. Vắng mặt.

- Anh Lê Quang T, sinh năm: 1958. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vũ Thành C là người nghiện ma túy do có nhu cầu sử dụng nên khoảng 11 giờ 30 phút ngày 12/9/2019, Vũ Thành C điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 35 B1- 836.55 từ phường Tân T, thành phố N, tỉnh N sang khu vực xã Y, huyện Ý, tỉnh N để mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khi đi qua cầu N khoảng 100 m, thuộc địa phận xã Y, huyện Ý, tỉnh N, Vũ Thành C dừng xe trước cửa một ngôi nhà ven đường Quốc lộ 10, biết trong nhà có người bán ma túy, Vũ Thành C đến trước cửa ngôi nhà nói “Anh ơi bán cho tôi một cái” và lấy 200.000 đồng đưa qua lỗ cửa của ngôi nhà. Trong nhà có người nhận tiền rồi đưa cho bị cáo một gói nhỏ gói ngoài bằng giấy bạc màu trắng bên trong là chất bột dạng cục màu trắng. Sau khi mua được ma túy, Vũ Thành C bỏ vào túi quần bên phải phía trước đang mặc rồi điều khiển xe mô tô về thành phố N để tìm nơi sử dụng. Đến khoảng 11 giờ 50 phút cùng ngày, khi Vũ Thành C điều khiển xe đi đến khu vực đường L, phố 4, phường Đ, thành phố N thì bị Tổ công tác công an phường P phối hợp với công an phường Đ yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Vũ Thành C đã tự giác lấy trong túi quần bên phải phía trước đang mặc một gói nhỏ gói ngoài bằng giấy bạc màu trắng bên trong là chất bột màu trắng vừa mua được giao nộp cho Tổ công tác và khai nhận là ma túy vừa mua về để sử dụng. Tổ công tác đã niêm phong vật chứng theo đúng quy định của pháp luật và đưa bị cáo cùng vật chứng về trụ sở công an phường Đ, thành phố N lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang. Ngoài ra còn thu giữ của bị cáo 01 chiếc xe mô tô hiệu Dream, biển kiểm soát 35 B1- 836.55.

Tiến hành cân xác định khối lượng chất bột dạng cục màu trắng trong gói giấy bạc thu giữ của bị cáo Vũ Thành C có khối lượng là 0,195 gam ký hiệu M gửi giám định xác định loại ma túy, khối lượng chất ma túy.

Tại bản Kết luận giám định số 283/KLGĐ - PC09 - MT ngày 14/9/2019 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh N kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu M có khối lượng 0,1912 gam là ma túy, loại Heroine. Heroine là chất ma tuý thuộc bảng Danh mục I, số thứ tự 9; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Cơ quan giám định hoàn lại đối tượng giám định gồm: chất bột dạng cục mầu trắng còn lại trong mẫu giám định ký hiệu M có khối lượng 0,1277 gam cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong được niêm phong trong một phong bì ghi số 283/KLGĐ- PC09- MT theo đúng quy định của pháp luật.

Tại bản Cáo trạng số 155/CT-VKS ngày 04/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã truy tố bị cáo Vũ Thành C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Vũ Thành C đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố N vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: bị cáo Vũ Thành C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Thành C từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/09/2019.

Áp dụng điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại cùng vỏ, bao gói niêm phong ban đầu;

Bị cáo bị kết án phải nộp án phí HSST và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Vũ Thành C không có ý kiến gì với Bản kết luận giám định; Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình; lời nói sau cùng bị cáo đề nghị hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an thành phố N, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi và các quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện công khai, hợp pháp đúng Pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên toà bị cáo Vũ Thành C đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như vật chứng đã thu giữ; kết luận giám định và phù hợp với lời khai của người làm chứng. Như vậy đã đủ căn cứ kết luận vào ngày 12/09/2019 Vũ Thành C có hành vi tàng trữ khối lượng 0,1912 gam là Heroine là ma túy để sử dụng cho bản thân đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố bị cáo với tội danh và khung hình phạt trên là có căn cứ, đúng pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo mang tính nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, là một trong những nguyên nhân gia tăng các tệ nạn xã hội, phát sinh các tội phạm khác, làm ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bản thân bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2012, nhận thức được tác hại của ma túy nhưng bị cáo lại không có ý thức tu dưỡng, rèn luyện, từ bỏ ma túy để trở thành Vũ Thành C dân có ích cho gia đình và xã hội, mà vẫn tiếp tục đi vào con đường phạm tội. Hội đồng xét xử thấy cần phải có hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, hành vi mà bị cáo đã thực hiện mới có đủ sức răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo góp phần phòng ngừa chung trong xã hội.

Khi lượng khung hình phạt Hội đồng xét xử cân nhắc xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo như: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; khi bị Tổ công tác kiểm tra hành chính bị cáo đã tự giác lấy ma úy giao nộp và khai nhận hành vi phạm tội của mình đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm r, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ nói trên để giảm một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật; Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo có nhân thân xấu, rất nhiều lần bị cáo đã bị xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, sau khi bị xử phạt hành chính bị cáo bỏ khỏi địa phương không thi hành một số quyết định xử phạt hành chính, bị cáo đã bị bắt buộc đưa vào cơ sở chữa bệnh, có thời gian nghiện ma túy kéo dài. Do đó, lần phạm tội này Hội đồng xét xử thấy cần buộc bị cáo phải chịu mức hình phạt tù có thời hạn, cách lý bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian tương xứng với hành vi của bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Vũ Thành C tàng trữ trái phép ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân, không mang mục đích vụ lợi vì vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Các vấn đề khác:

- Về nguồn gốc ma túy: bị cáo Vũ Thành C khai mua của một người không quen biết ở một ngôi nhà không rõ địa chỉ thuộc khu vực xã Y, huyện Ý, tỉnh N nên Cơ quan cảnh sát điều tra không đủ cở sở điều tra, làm rõ. - Vật chứng của vụ án: Trong quá trình điều tra cơ quan Vũ Thành C an có thu giữ của bị cáo 01 gói ma túy có khối lượng 0,1912gam, đã trích một phần ký hiệu M gửi đi giám định, số ma túy còn lại là 0,1277 gam Heroine Cơ quan công an hoàn trả lại cùng toàn bộ vỏ, giấy gói ban đầu, vỏ bao gói niêm phong, đây là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 chiếc xe mô tô hiệu Dream, biển kiểm soát 35 B1- 836.55 đã thu giữ của bị cáo Vũ Thành C, quá trình điều tra xác định là của ông Vũ Quang V, sinh năm 1957, trú tại phố B, phường N, thành phố N, tỉnh N (là bố đẻ của bị cáo Vũ Thành C) ông V đã mua lại của anh Phạm Văn N, sinh năm 1971 trú tại xã K, huyện Y, tỉnh N. Ông V không biết việc bị cáo Vũ Thành C sử dụng xe mô tô trên đi mua ma túy. Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô trên cho ông Vũ Quang V là phù hợp với quy định của pháp luật.

Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Thành C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Thành C 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo (12/09/2019).

2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: số mà túy là Hê rô in còn lại cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong ban đầu. (Vật chứng có đặc điểm theo như biên bản giao nhận vật chứng ngày 11 tháng 11 năm 2019 giữa công an Thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Vũ Thành C phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

Án xử Vũ Thành C khai sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 163/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:163/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về