Bản án 163/2019/HSPT ngày 16/05/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 163/2019/HSPT NGÀY 16/05/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 17 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 121/2019/HSPT ngày 04/4/2019 đối với bị cáo Lê Hữu T về tội “Cố ý gây thương tích”. Do có kháng cáo của bị cáo và người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2019/HSST ngày 27/02/2019 của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.

1/ Bị cáo kháng cáo: Lê Hữu T. Sinh năm 1990, tại tỉnh Quảng Ngãi;

Nơi cư trú: Thôn A, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiêp: Làm nông; trình độ học vấn: 12/12; con ông Lê Văn O và bà Đoàn Thị D; bị cáo có vợ: Nguyễn Thị N và 03 con, con lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt

2/ Người bị hại có kháng cáo: Anh Nguyễn Hoài L - sinh năm 1989;

Nơi cư trú: Thôn A, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

3/ Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Xí Đ - sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn E, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

- Ông Lê Văn O - Sinh năm 1964; địa chỉ: Thôn C, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk.

4/ Người bào chữa cho bị cáo: Bà Phạm Thị T - Luật sư văn phòng M, Đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Hữu T và Nguyễn Hoài L, cùng trú tại thôn A, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk, bạn bè với nhau. L và T đã có nhiều lần tham gia đánh bạc thắng thua bằng tiền cùng với một số người tại địa phương. Sáng ngày 16/8/2018, qua những người đã cùng đánh bạc với mình trước đó, Nguyễn Hoài L biết được thông tin về việc Lê Hữu T dùng thủ đoạn gian lận trong khi đánh bạc để lấy tiền của nhiều người, L nghĩ rằng T cũng gian lận để thắng được tiền của mình nên L rất bức xúc đã sử dụng điện thoại di động nhắn tin cho T với nội dung: “Cái giá mày phải trả tội lừa tao, để xem kết cục gia đình mày ra sao” nhằm mục đích để T lo sợ và phải trả tiền đã thắng được trước đây cho mình.

Sau khi nhận được tin nhắn thì T đã báo cho cha ruột của mình là ông Lê Văn O để cùng đến gia đình L hỏi lý do việc L nhắn tin như vậy nhằm mục đích gì, tuy nhiên do L không có mặt ở nhà nên T đã thông báo cho cha, mẹ của L biết sự việc. Khoảng 19 giờ cùng ngày khi đi làm về thì L biết được việc T đến nhà tìm gặp mình nên đã đi xe môtô đến nhà tìm gặp T. Khi thấy T ở trong nhà L điều khiển xe mô tô chạy từ ngoài vào trong nhà T đến cửa ra vào thì dừng lại, L và T đã xảy ra tranh cãi hai bên xô xát với nhau; bức xúc việc L nhắn tin đe dọa mình và gia đình đồng thời thấy thái độ của L khi đến nhà rất hung hăng nên T đã lấy một đoạn gậy gỗ (được dùng làm then cài cửa) đánh vào đầu của L, do bị đánh nên L dùng tay, chân chống trả lại nhưng tiếp tục bị T dùng gậy gỗ đánh liên tiếp vào ngực, vào tay trái L gây thương tích, cho đến khi người nhà của T can ngăn thì sự việc mới kết thúc và L được mọi người đưa đi cấp cứu. (BL: 31-40, 56-65, 86-91).

Tại bản kết luận pháp y thương tích số 1120/PY-TgT ngày 01/10/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Nguyễn Hoài L bị vết thương gãy mỏm khuỷu trái, tỉ lệ thương tích 15%; vết thương thái dương trái, tỉ lệ thương tích 03%; chấn thương nách, ngực trái tỉ lệ thương tích 01%, các viết thương do vậy tác động cứng, tày. Tổng tỉ lệ thương tích là 19%. (BL: 29).

Ti Bản án hình sự sơ thẩm số: 07/2019/HS-ST ngày 27/02/2019 của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Lê Hữu T, phạm tội: Cố ý gây thương tích.

Áp dụng: Khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt: Bị cáo Lê Hữu T 18 (mười tám) tháng tù thời hạn tù Th từ ngày bắt thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo phải bồi thường cho Nguyễn Hoài L số tiền là 30.591.000 đồng (Ba mươi triệu năm trăm chín mươi mốt nghìn đồng). Bị cáo đã bồi thường 15.000.000 đồng còn lại phải bồi thường là 15.591.000đ (Mười lăm triệu năm trăm chín mươi mốt nghìn đồng).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo của bị cáo và người bị hại theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 06/3/2019, bị cáo Lê Hữu T kháng cáo xin được chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ; ngày 11/3/2019, bị hại kháng cáo đề nghị tăng hình phạt và tăng mức bồi thường, đồng thời đề nghị hủy bản án sơ thẩm vì cho rằng bố và anh rể của bị cáo là ông Lê Văn O và ông Nguyễn Xí Đ tham gia đánh bị cáo nhưng cấp sơ thẩm đã bỏ lọt người phạm tội.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung vụ án đã được tóm tắt nêu trên. Bị cáo và người bị hại vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo.

* Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau:

Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Hữu T về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự với mức hình phạt 01 năm 06 tháng là tương xứng với Th chất mức độ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, tại Tòa án cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp được thêm tình tiết mới. Đối với kháng cáo của người bị hại yêu cầu tăng mức hình phạt đối với bị cáo và tăng mức bồi thường, về mức hình phạt là do lỗi một phần người bị hại, về mức bồi thường ở tại cấp sơ thẩm đã xem xét bồi thường mức tối đa. Từ những phân tích trên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo và người bị hại, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 07/2019/HS-ST ngày 27/02/2019 của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.

* Người bào chữa cho bị cáo Lê Hữu T, bà Phạm Thị T trình bày:

Hành vi của bị cáo T gây thương tích cho anh Nguyễn Hoài L cũng do lỗi một phần của người bị hại. Sau khi phạm tội, bị cáo đã bồi thường hết cho người bị hại toàn bộ chi phí thuốc men điều trị và chi phí khác, gia đình bị cáo có công với cách mạng, bố và ông của bị cáo đều được tặng thưởng huân huy chương kháng chiến. Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án cải tạo không giam giữ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, có đủ cơ sở xác định: Do ý thức coi thường pháp luật xem thường sức khỏe của người khác, khoảng 19 giờ ngày 16/8/2018 bị cáo Lê Hữu T đã có hành vi dùng gậy gỗ đánh vào vùng đầu, ngực, làm gãy tay trái cho anh Nguyễn Hoài L tỷ lệ thương tích 19%. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Hữu T về tội “Cố ý gây thương tích”, theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[1] Xét kháng cáo của bị hại Hội đồng xét xử xét thấy:

[1.1] Đối với nội dung kháng cáo cho rằng cấp sơ thẩm đã bỏ lọt người phạm tội: Ngay sau khi xô xát xảy ra (ngày 16/8/2018), tại biên bản ghi lời khai ngày 19/8/2018 (BL36), Nguyễn Hoài L khai: Tôi bị Lê Hữu T dùng gậy đánh liên tục lên đầu và cơ thể. Khi bị đánh nằm ngã xuống thì anh vợ của T (Nguyễn Xí Đ) có đến và dùng tay không, chân đánh nhiều cái lên người tôi. Khi tôi nằm ở sân thì ông O và T kéo tôi vào hiên nhà.

Biên bản ghi lời khai ngày 30/8/2018 (BL58), ngày 09/11/2018 (BL60) và các biên bản ghi lời khai khác, L khai: T dùng gậy đánh một cái vào đầu tôi, tôi bỏ chạy ra ngoài, T đuổi theo đánh liên tiếp vào cơ thể tôi. Khoảng 15 phút sau, tôi thấy Đ và nhiều người khác đến thì T mới dừng lại. Đ dùng chân đá liên tiếp vào người tôi. Một lúc sau ông O đến kéo lê tôi vào hiên nhà cho đến khi công an đến. Ngay từ đầu không có mặt ông O và Đ.

Tại bản kết luận pháp y thương tích số 1120/PY-TgT ngày 01/10/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk xác định dấu vết tổn thương gồm: Vết thương thái dương trái (đã khâu), đặt nẹp bột cánh bàn tay trái, hai vết bầm gần nách và ngực trái. Tổng tỉ lệ thương tích là 19%. Vật tác động: cứng, tày (BL: 29).

Như vậy, có 03 vết thương trên cơ thể Nguyễn Hoài L và đều do vật cứng, tày tác động. Các vết thương và cơ chế hình thành phù hợp với lời khai của Nguyễn Hoài L là do bị Lê Hữu T dùng gậy đánh. Sau khi bị T đánh xong thì Nguyễn Xí Đ và Lê Văn O mới đến. Những người này đều không có mâu thuẫn gì với L. Lời khai của Nguyễn Hoài L cũng xác định ông O không đánh L mà chỉ kéo L vào nhà. Do đó, kháng cáo của người bị hại đề nghị hủy bản án sơ thẩm vì cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm là ông O và ông Đ là không có căn cứ chấp nhận.

[1.2] Đối với nội dung kháng cáo đề nghị tăng hình phạt, tăng mức bồi thường, nhận thấy:

Xuất phát từ việc bị hại nhắn tin đe dọa bị cáo, sau đó phóng xe đến nhà bị cáo để nói chuyện, giữa hai bên đã xảy ra xô xát. Bị cáo dùng then cài cửa bằng gỗ gây thương tích cho bị hại với tỷ lệ lệ thương tích 19%. Bản thân bị hại cũng đánh bị cáo, thể hiện tại biên bản khám xét dấu vết trên thân thể bị cáo ngày 17/8/2018 (BL 25) có 01 vết trầy xước da mặt trên ngón trỏ tay trái, 01 vết trầy xước da, sưng đỏ mặt trong khủy tay trái. Trong vụ án này, bị hại cũng có một phần lỗi, tại phần tranh luận người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tại cấp sơ thẩm đã xem xét bồi thường mức tối đa và các chi phí hợp lý khác cho người bị hại. Tại phiên tòa hôm nay người bị hại cũng không cung cấp được thêm các chứng từ hóa đơn hợp lý nào khác, nên kháng cáo của người bị hại đề nghị tăng hình phạt, tăng mức bồi thường là không có căn cứ để chấp nhận.

[2] Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Lê Hữu T sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại để khắc phục hậu quả cho người bị hại. Sau khi xét xử phúc thẩm, bị cáo tiếp tục bồi thường hết toàn bộ số tiền mà cấp sơ thẩm đã tuyên và nộp đủ tiền án phí sơ thẩm. Bố và ông nội của bị cáo là người có công với cách mạng nhưng cấp sơ thẩm không nhận định nội dung này là thiếu sót. Tuy nhiên, ấp sơ thẩm đã áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù là tương xứng với Th chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Do vậy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo về việc xin được cải tạo không giam giữ.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Cấp sơ thẩm đã xem xét, thanh toán đầy đủ các khoản chi phí theo quy định của pháp luật, và buộc bị cáo bồi thường số tiền 30.591.000 đồng là có căn cứ. Bị cáo đã bồi thường cho người bị hại tại Cơ quan Điều tra số tiền 15.000.000 đồng và tại Chi cục thi hành án dân sự 15.591.000 đồng.

[4] Về án phí: Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, nên Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/ Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Hữu T và người bị hại anh Nguyễn Hoài L. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 07/2019/HS-ST ngày 27/02/2019 của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.

2/ Áp dụng khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Lê Hữu T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, thời hạn phạt tù Th từ ngày bắt thi hành án.

3/ Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo phải bồi thường cho Nguyễn Hoài L số tiền là 30.591.000 đồng (Ba mươi triệu năm trăm chín mươi mốt nghìn đồng). Công nhận bị cáo đã bồi thường cho người bị hại tại Cơ quan Điều tra số tiền 15.000.000 đồng, tại Chi cục thi hành án dân sự 15.591.000 đồng. Bị cáo đã bồi thường 15.000.000 đồng còn lại phải bồi thường là 15.591.000 đồng (Mười lăm triệu năm trăm chín mươi mốt nghìn đồng).

4/ Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Lê Hữu T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, nên Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

308
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 163/2019/HSPT ngày 16/05/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:163/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về