Bản án 16/2021/HSST ngày 31/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO L, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 16/2021/HSST NGÀY 31/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 31 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bảo L, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 10/2021/HSST ngày 25/02/2021, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2021/HSST - QĐ ngày 17/3/2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Thạch G, sinh năm 1994 tại Bạc Liêu.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã V, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu. Chỗ ở hiện nay: Thôn 9, xã L, huyện Bảo L, tỉnh Lâm Đồng; Nghề nghiệp:

Làm vườn; Trình độ văn hoá: lớp 3/12; Con ông: Thạch C và bà Tăng Thị Ú;

Gia đình bị cáo có 05 anh em, bị cáo là con nhỏ nhất trong gia đình; Vợ: Sống như vợ chồng với chị Ka T, con: có 01 sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 09/12/2020, ngày 12/12/2020 chuyển sang tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Bảo L, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

Người bị hại:

1. Ông Đỗ Gia T, sinh năm 1987 Địa chỉ: Thôn 9, xã L, huyện Bảo L, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ ngày 08/12/2020, bị cáo Thạch G mang thiết bị nghe nhạc của mình đến tiệm điện thoại Thanh S tại thôn 9, xã L, huyện Bảo L của ông Đỗ Gia T để sửa chữa. Khi đến nơi, bị cáo Thạch G không thấy ai trông tiệm, phát hiện tủ trưng bày điện thoại của ông T không khóa nên nảy sinh ý định trộm cắp. Thạch G lấy 01 chiếc điện thoại hiệu Vivo 1920 trong tủ trưng bày mang về nhà mình ở gần đó. Đến khoảng 23 giờ ngày 08/12/2020, Công an xã L sau khi nhận được tin báo của ông Đỗ Gia T đã đến kiểm tra tại nhà Thạch G phát hiện bị cáo Thạch G đang giữ chiếc điện thoại đã trộm cắp tại phòng ngủ của mình.

Theo Bản kết luận định giá tài sản số 140/KLĐG ngày 10/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản Tố tụng hình sự huyện Bảo L 01 điện thoại di động hiệu Vivo 1920 có giá trị 5.400.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 15/CT-VKS-BL ngày 25/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo L, tỉnh Lâm Đồng đã truy tố bị cáo Thạch G về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà:

Bị cáo Thạch G thừa nhận đã thực hiện trộm cắp tài sản như cáo trạng đã truy tố.

Người bị hại ông Đỗ Gia T trình bày: vào ngày 08/12/2020 bị cáo Thạch G đã trộm cắp 01 chiếc điện thoại hiệu Vivo 1920 trong tủ trưng bày của ông, nay đã được cơ quan điều tra trả lại nên không yêu cầu bồi thường gì thêm, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo L trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Thạch G từ 06 đến 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Về trách nhiệm dân sự:

Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã thu hồi và trả lại tài sản cho người bị hại, nay ông Đỗ Gia T không yêu cầu gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về vật chứng:

Cơ quan điều tra Công an huyện Bảo L đã thu giữ và trả lại cho ông Đỗ Gia T 01 điện thoại di động hiệu Vivo 1920 nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng:

Bị cáo Thạch G: Bị cáo đã nhận thức được hành vi mình thực hiện là vi phạm pháp luật, bị cáo xin lỗi người bị hại và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Bảo L, của Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo:

2.1. Qua thẩm vấn công khai tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau: vào khoảng 20 giờ ngày 08/12/2020, bị cáo Thạch G lấy trộm 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 1920 của ông Đỗ Gia T. Theo kết luận định giá tài sản số 140/KLĐG ngày 10/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản Tố tụng hình sự huyện Bảo L thì chiếc điện thoại di động hiệu Vivo 1920 có giá trị 5.400.000 đồng.

Bị cáo là người đã trưởng thành nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng do tham lam nên cố ý lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của ông T là phạm tội, bất chấp pháp luật. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai của người bị hại, biên bản ghi nhận hiện trường, các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo L đã truy tố bị cáo.

2.2. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định: Hành vi của bị cáo Thạch G đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Vì vậy, cáo trạng số 15/CT-VKS-BL ngày 25/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo L truy tố bị cáo Thạch G theo khoản 1 Điều 173 là hoàn toàn có cơ sở, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

2.3. Hành vi của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, gây hoang mang trong cộng đồng dân cư. Điều đó cho thấy bản thân bị cáo rất coi thường pháp luật. Để trừng trị nghiêm khắc hành vi phạm tội, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật và ngăn ngừa phạm tội mới, đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật nên cần phải xét xử và áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[3] Hội đồng xét xử đánh giá về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay thấy rằng: bị cáo phạm tôi lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuy nhiên, bị cáo sống chung với chị Ka T như vợ chồng tại thôn 9, xã L, huyện Bảo L nhưng không đăng ký kết hôn cũng không đăng ký nơi cư trú.

[4] Từ những phân tích trên, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời để răn đe, phòng ngừa chung.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã thu hồi và trả lại tài sản cho người bị hại, nay ông Đỗ Gia T không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về vật chứng: Cơ quan điều tra Công an huyện Bảo L đã thu giữ và trả lại cho ông Đỗ Gia T 01 điện thoại di động hiệu Vivo 1920 nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo Thạch G phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Thạch G phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Thạch G 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/12/2020.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Buộc bị cáo Thạch G phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2015.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2021/HSST ngày 31/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:16/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về