Bản án 16/2021/HSST ngày 09/03/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 16/2021/HSST NGÀY 09/03/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 09 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 17/2021/TLST-HS ngày 03 tháng 02 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2021/ QĐXXST-HS ngày 23 tháng 02 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Th (tên gọi khác: K), sinh ngày 04/11/1997 tại tỉnh Đ; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ 02, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Thợ sửa xe ô tô; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn L và bà: Lê Thị T; chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 06 tháng 11 năm 2020, sau đó bị tạm giam, hiện nay đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai. Có mặt.

Người chứng kiến: Ông V, sinh năm 1970; địa chỉ: Tổ 02, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 13 giờ ngày 06/11/2020 tại hẻm số 32 đường Trần Quý Cáp, tổ 02, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai, Nguyễn Văn Th gặp một người phụ nữ tên P (hiện chưa xác định được nhân thân, địa chỉ) là bạn quen biết ngoài xã hội của Th.

P có hỏi mua ma túy của Th với giá 900.000 đồng, Th đồng ý bán ma túy cho Ph. Sau đó, Th đón xe thồ đến khu vực đường L gần nhà may N tìm và gặp một người thanh niên J (hiện chưa xác định được nhân thân, địa chỉ, là bạn quen biết ngoài xã hội của Th) và mua 01 gói ma túy đá với giá 800.000 đồng, Th thỏa thuận với J sẽ trả tiền mua ma túy cho J sau và J đồng ý. Sau khi có được số ma túy trên thì Th đón xe thồ của một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) đi về hẻm số 32 đường T, tổ 02, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai, để bán cho Ph với giá 900.000 đồng. Đến khoảng 14 giờ 45 phút ngày 06/11/2020, khi Th đang chờ Ph đến để bán ma túy thì bị Lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy - Công an thành phố P phối hợp với Công an phường T, thành phố P phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Văn Th cùng tang vật. Cơ quan Cảnh sát điều tra thu giữ trong túi áo bên phải của Nguyễn Văn Th 01 gói nilon bên trong chứa chất màu trắng dạng tinh thể mà Th định bán cho Ph và 01 điện thoại di động hiệu SONY XPERIA màu xám – đen, kèm sim số.

Tại Kết luận giám định số: 803/KLGĐ ngày 13/11/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai, kết luận: “Chất màu trắng, dạng tinh thể trong 01 (một) gói nilon, trong bì công văn niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,3513 gam”.

Cáo trạng số: 25/CT-VKS, ngày 02 tháng 02 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố P truy tố Nguyễn Văn Th về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Nguyễn Văn Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; áp dụng Khoản 1 Điều 251; Điểm: s Khoản 1 Điều 51; các Điều: 38, 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Văn Th: Từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung, vì bị cáo không có tài sản để thi hành; tịch thu và tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu SONY XPERIA màu xám đen, kèm sim số; buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều hợp pháp.

[2] Những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; bị cáo cung cấp đều hợp pháp.

[3] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai của bị cáo đã khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên đã đủ căn cứ kết luận: Vào lúc 14 giờ 45 phút ngày 06/11/2020, tại hẻm số 32 đường T, tổ 02, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai, khi Nguyễn Văn Th đang tàng trữ 0,3513 gam chất ma túy loại Methamphetamine với mục đích để bán cho người phụ nữ tên Ph với giá 900.000 đồng thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy - Công an thành phố P bắt quả tang.

[4] Hành vi tàng trữ 0,3513 gam chất ma túy loại Methamphetamine, với mục đích để bán kiếm lời, do bị cáo Nguyễn Văn Th thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự trị an xã hội nên hành vi đó phải bị xử lý theo pháp luật hình sự.

Khi thực hiện hành vi mua bán ma túy, Nguyễn Văn Th đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Từ những nhận định tại các luận điểm từ [1] đến [4] như đã nêu trên, đã có đủ căn cứ tuyên bố Nguyễn Văn Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, quy định tại Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

[5] Tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự nên bị xét xử ở Khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

[6] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, vì trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay đã thành khẩn khai báo.

Từ những đánh giá các tình tiết liên quan đến việc lượng hình tại các luận điểm [5] đến [7] nêu trên, cần thiết phải xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th một mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ do hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra, và phù hợp đánh giá của Kiểm sát viên tại phiên tòa hôm nay. Việc áp dụng hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, giáo dục, nên cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo được tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo, vì bị cáo mua bán ma túy lần đầu và số lượng nhỏ, không có khả năng về kinh tế để chấp hành hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.

[8] Xử lý vật chứng: Khối lượng ma túy còn lại sau giám định, là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tuyên tịch thu và tiêu hủy theo Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Một điện thoại di động hiệu SONY XPERIA màu xám – đen, kèm sim số là tài sản của bị cáo Th, nhưng bị cáo không dùng điện thoại này vào việc phạm tội, nên trả lại cho bị cáo.

[8] Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Văn Th phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Xem xét các hành vi có liên quan: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành mở nhật ký cuộc gọi và danh bạ trong điện thoại di động của bị cáo Th, nhưng không xác định được các số điện thoại cũng như nhân thân lý lịch của J và P, không có nội dung tin nhắn liên quan đến việc mua bán trái phép chất ma túy J và P, nên không có căn cứ để xử lý J và P.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tội danh: Tuyên bố Nguyễn Văn Th (tên gọi khác: K) phạm tội“Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt: -Áp dụng Khoản 1 Điều 251; Điểm s Khoản 1 Điều 51; các Điều: 38, 50 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th (tên gọi khác: K) 02(hai) năm 06(sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06 tháng 11 năm 2020.

3. Xử lý vật chứng: -Căn cứ vào Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu và tiêu hủy khối lượng ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định, đựng trong 01 bì công văn dán kín ghi số: 803/PC09 ngày 13/11/2020, bên ngoài có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai.

Trả lại cho bị cáo nguyễn Văn Th 01(một) điện thoại di động hiệu SONY XPERIA màu xám – đen, kèm sim số (điện thoại cũ, đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong).

Vật chứng nêu trên được thể hiện tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 22 tháng 02 năm 2021, giữa Công an thành phố P và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P.

4. Án phí hình sự sơ thẩm:

-Căn cứ Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; và Điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Văn Th phải chịu 200.000 (bằng chữ: Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm sung vào ngân sách nhà nước.

5. Người có quyền kháng cáo, thời hạn kháng cáo:

-Căn cứ vào các Điều: 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Báo cho: Bị cáo Nguyễn Văn Th được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày tuyên án là ngày 09 tháng 3 năm 2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2021/HSST ngày 09/03/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:16/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về