Bản án 16/2021/HS-ST ngày 02/07/2021 về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 16/2021/HS-ST NGÀY 02/07/2021 VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

Trong ngày 02 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 12/2021/TLST-HS ngày 27 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 6 năm 2021, đối với bị cáo:

Lâm Minh S, sinh năm 1975; nơi sinh: tỉnh Sóc Trăng; nơi cư trú: số D, đường C, khóm 1, phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: Thợ sửa xe; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lâm Minh H (đã chết) và bà Nguyễn Thị N – sinh năm 1948; họ và tên vợ: Đỗ Thanh Th – sinh năm 1984 (đã ly hôn); có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2003, nhỏ nhất sinh năm 2006; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/01/2021 và chuyển sang tạm giam cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa: Ông Nguyễn Thanh D – Luật sư Văn phòng luật sư Việt Út thuộc Đoàn luật sư tỉnh Sóc Trăng (có mặt);

- Bị hại: Mã Thị Ngọc H – sinh ngày 17/02/2008 (không triệu tập);

Nơi cư trú: số A, đường THĐ, khóm 7, phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng;

Nơi tạm trú: số B, đường C, khóm 5, phường 9, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Ông Nguyễn Văn B và bà Nguyễn Thị Hồng Tr – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sóc Trăng (có mặt);

- Người đại diện hợp pháp của bị hại:

1. Bà Đặng Thúy O – sinh năm 1982; nơi cư trú: số A, đường THĐ, khóm 7, phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

Nơi tạm trú: số B, đường C, khóm 5, phường 9, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (có mặt);

2. Ông Mã Văn G – sinh năm 1969; nơi cư trú: số A, đường THĐ, khóm 7, phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

Nơi tạm trú: số B, đường C, khóm 5, phường 9, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt);

- Đại diện đoàn thể: Bà Lương Minh H, sinh năm 1987 – Chuyên viên của Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Sóc Trăng (có mặt);

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Nguyễn Thị N – sinh năm 1948; nơi cư trú: số D, đường C, khóm 1, phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng đầu tháng 8/2020, bị cáo Lâm Minh S thường đến nhà của ông Mã Văn G để uống rượu nên quen biết với Mã Thị Ngọc H – sinh ngày 17/02/2008 là con gái ông G. Bị cáo nhiều lần thực hiện hành vi giao cấu với Mã Thị Ngọc H tại số nhà B, đường C, khóm 5, phường 9, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Vào ngày 25/8/2020, bị cáo đến nhà uống rượu cùng với ông G. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, do bị cáo say rượu nên ngủ lại tại nhà trước của ông G. Bị cáo nằm kế bên H, còn ông G ngủ cùng vợ và 02 con nhỏ bên cạnh. Bị cáo nằm được một lúc thì nói với H: “Cho anh cái anh sẽ lo cho cuộc đời về sau”, thấy H không phản ứng gì bị cáo dùng tay cởi quần H xuống tới đầu gối rồi đút dương vật vào âm đạo của H để giao cấu được một lúc thì xuất tinh vào trong âm đạo của H. Sau đó, cả hai tự kéo quần lên và ôm nhau ngủ đến sáng.

Lần thứ hai: Khoảng 21 giờ ngày 27/8/2020, sau khi uống rượu với ông G, bị cáo ra phía sau nhà ngủ chung với H. Do nhà chật nên ông G mua cao su che phía sau nhà làm chỗ ngủ cho H. Bị cáo nằm ôm H được một lúc thì thực hiện hành vi giao cấu với H, sau khi giao cấu xong thì cả hai tự mặc quần áo vào và tiếp tục ngủ chung đến sáng.

Lần thứ ba: Vào ngày 24/01/2021, bị cáo và H ngủ chung với nhau tại nhà sau của H. Sau đó, bị cáo và H quan hệ tình dục với nhau như những lần trước.

Ngoài ra, trong quá trình điều tra, bị cáo còn thừa nhận trong quá trình sống tại nhà của H, bị cáo và H đã nhiều lần quan hệ tình dục với nhau nhưng không nhớ được mấy lần và ngày, tháng, năm nào.

Đến ngày 29/01/2021, mẹ của H là bà Đặng Thúy O nghi ngờ H có thai nên đưa H đi siêu âm thì bác sỹ kết luận H có thai 04 tuần 05 ngày nên bà Oanh đến Công an phường 9, thành phố S trình báo sự việc.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 40/TD-PY, ngày 08/02/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Sóc Trăng kết luận đối với Mã Thị Ngọc H:

Bộ phận sinh dục:

- Màng trinh: Dãn rộng, có vết rách cũ vị trí 4 giờ và 9 giờ;

- Âm đạo: Dãn rộng, không sẹo xơ;

Cận lâm sàng:

- Test thai: Dương tính;

- Siêu âm: Một túi thai trong tử cung khoảng 05 tuần 06 ngày. Dự sinh ngày 28/9/2021;

Tỷ lệ tổn thương cơ thể do bị xâm hại tình dục hiện lại là: 00%.

Tại Kết luận giám định số 1143/C09B, ngày 31/3/2021 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Không phân tích được kiểu gen từ mẫu phôi thai ghi thu của Mã Thị Ngọc H do mẫu đã biến tính.

Tại Cáo trạng số: 15/CT-VKSST-P2, ngày 27/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng truy tố bị cáo Lâm Minh S về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”, theo quy định tại điểm b, điểm đ khoản 2 Điều 142 của Bộ luật Hình sự năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lâm Minh S. Trên cơ sở phân tích tính chất nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nguyên nhân, điều kiện dẫn đến phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b, điểm đ khoản 2 Điều 142; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Lâm Minh S từ 12 đến 14 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường về trách nhiệm dân sự nên Viện kiểm sát không đề nghị.

- Người bào chữa cho bị cáo trình bày bào chữa: Về tội danh và khung hình phạt thống nhất với Cáo trạng của Viện Kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” theo quy định tại điểm b, điểm đ khoản 2 Điều 142 của Bộ luật Hình sự năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ như: Khi phạm tội, bị cáo thật thà khai báo, bị cáo tự thú những lần phạm tội trước, bị cáo đã khắc phục hậu quả cho bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm b, s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo 09 năm tù.

- Bị cáo thống nhất với lời bào chữa của người bào chữa, không có ý kiến gì bổ sung.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại trình bày ý kiến: Về tội danh và khung hình phạt thống nhất với Cáo trạng của Viện Kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” theo quy định tại điểm b, điểm đ khoản 2 Điều 142 của Bộ luật Hình sự năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Về hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo Lâm Minh S xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sóc Trăng, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự có mặt của người tham gia tố tụng: Ông Mã Văn G với tư cách là người đại diện hợp pháp của bị hại đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng ông G vắng mặt không có lý do nhưng có bà Đặng Thúy O (vợ ông G, mẹ ruột của bị hại) có mặt tại phiên tòa vẫn đảm bảo việc xét xử vụ án nên căn cứ khoản 1, Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, vụ án vẫn được xét xử theo quy định.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo Lâm Minh S thừa nhận: Bị cáo và ông Mã Văn G (cha ruột của bị hại Mã Thị Ngọc H) là chỗ quen biết nên thường xuyên nhậu chung với nhau tại nhà của ông G. Tại đây, bị cáo quen biết với bị hại H và 02 bên nảy sinh tình cảm với nhau. Thời gian từ tháng 8/2020 đến ngày 24/01/2021, để thỏa mãn ham muốn về tình dục của bản thân, bị cáo đã dùng lời lẽ, hứa hẹn nhằm dụ dỗ để được giao cấu với bị hại thì bị hại đồng ý. Bị cáo đã nhiều lần thực hiện hành vi giao cấu với bị hại H tại số nhà B, đường C, khóm 5, phường 9, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng, cụ thể vào các ngày 25/8/2020, 27/8/2020, 24/01/2021 và nhiều lần khác bị cáo không nhớ rõ ngày, tháng, dẫn đến bị hại H có thai.

[4] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp với lời khai của chính bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của bị hại, phù hợp với Bản kết luận giám định pháp y về tình dục, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thực nghiệm điều tra và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ để xác định: Bị cáo Lâm Minh S đã lợi dụng việc không am hiểu về tình dục của bị hại, sự non nớt trong suy nghĩ và hành động của bị hại; lợi dụng lòng tin, sự mất cảnh giác của gia đình bị hại để thực hiện hành vi giao cấu với bị hại Mã Thị Ngọc H nhiều lần, tại thời điểm lần giao cấu đầu tiên thì bị hại chỉ mới 12 tuổi 06 tháng 08 ngày. Tại Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 40/TD-PY, ngày 08/02/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Sóc Trăng đối với Mã Thị Ngọc H, kết luận: “Bộ phận sinh dục: Màng trinh dãn rộng, có vết rách cũ vị trí 4 giờ và 9 giờ; âm đạo: Dãn rộng, không sẹo xơ; test thai: Dương tính; siêu âm: Một túi thai trong tử cung khoảng 05 tuần 06 ngày. Dự sinh ngày 28/9/2021; Tỷ lệ tổn thương cơ thể do bị xâm hại tình dục hiện lại là:

00%.”. Ngoài ra, tại Kết luận giám định số 1143/C09B, ngày 31/3/2021 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: “Không phân tích được kiểu gen từ mẫu phôi thai ghi thu của Mã Thị Ngọc H do mẫu đã biến tính”, tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đều thừa nhận bào thai trong bụng của bị hại H là do bị cáo giao cấu với bị hại nhiều lần dẫn đến có thai. Như vậy, hành vi của bị cáo Lâm Minh S đã đủ yếu tố cấu thành tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” thuộc trường hợp quy định tại điểm b, điểm đ khoản 2 Điều 142 của Bộ luật Hình sự năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm hại đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục, danh dự, nhân phẩm của bị hại, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển bình thường về tâm, sinh lý của bị hại, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội và ảnh hưởng tiêu cực đến thuần phong, mỹ tục. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách hiệm hình sự và biết rõ bị hại là trẻ em nhưng vì muốn thỏa mãn dục vọng của bản thân, bị cáo đã bất chấp sự nghiêm cấm của pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần với bị hại dẫn đến bị hại có thai. Cho nên, cần áp dụng mức án nghiêm khắc đối với bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để cho bị cáo học tập, cải tạo trở thành công dân tốt cũng nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm chung.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có do bị cáo đã chịu tình tiết định khung hình phạt “Phạm tội 02 lần trở lên” tại điểm đ khoản 2 Điều 142 của Bộ luật Hình sự năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của của Bộ luật Hình sự năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo; đã tác động gia đình bồi thường khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại với số tiền 500.000 đồng; đồng thời, người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy tại điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử sẽ xem xét các tình tiết giảm nhẹ nêu trên và cân nhắc khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[8] Lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là có căn cứ và mức hình phạt đề nghị cũng tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Đối với đề nghị của người bào chữa: Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ như: Bị cáo thật thà khai báo, đã khắc phục hậu quả cho bị hại, bị cáo có nhân thân tốt, người đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Đối với lời đề nghị của người bào chữa về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ là bị cáo tự thú những lần pháp tội trước thì Hội đồng xét xử không chấp nhận vì khi làm việc với Cơ quan điều tra, bị hại Mã Thị Ngọc H đã khai bị bị cáo S quan hệ tình dục với H nhiều lần (bút lục 153, 154) và khi làm việc với Cơ quan điều tra thì bị cáo S thừa nhận chứ không phải tự bị cáo khai ra nên không được xem là bị cáo S tự thú. Ngoài ra, người bào chữa cho bị cáo còn đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015, (sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo S nhưng Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[10] Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xử lý nghiêm khắc đối với bị cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Về trách nhiệm dân sự: Trong giai đoạn điều tra, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại 500.000 đồng và người đại diện hợp pháp của bị hại là ông Mã Văn G, bà Đặng Thúy O không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm về trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[12] Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị N là mẹ ruột của bị cáo đã thay bị cáo bồi thường khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại với số tiền 500.000 đồng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bà N không yêu cầu bị cáo phải trả lại cho bà số tiền trên nên không xem xét.

[13] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Lâm Minh S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, điểm đ khoản 2 Điều 142; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

1. Tuyên bố: Bị cáo Lâm Minh S phạm tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”.

Xử phạt bị cáo Lâm Minh S 14 (mười bốn) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/01/2021.

2. Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Lâm Minh S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 02/7/2021). Người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

344
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2021/HS-ST ngày 02/07/2021 về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi

Số hiệu:16/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về