Bản án 16/2021/HNGĐ-ST ngày 20/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM THỦY, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 16/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 20 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 589/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 302/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 165/2020/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Ấp M, xã M, huyện C, tỉnh T.

* Bị đơn : Anh Trần Văn Út L, sinh năm 1984.

Địa chỉ: Ấp M1, xã M, huyện C, tỉnh T.

(Chị H có mặt; anh Út L vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, các ý kiến và yêu cầu trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Do quen biết nên chị và anh Út L xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện C, tỉnh T vào năm 2015.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc được một thời gian đến khoảng giữa tháng 10/2015 khi chị sinh cháu Trần Quang N thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, không hợp tính tình, vợ chồng thường xuyên cải nhau, anh Út L không quan tâm đến đời sống vợ con, cuộc sống chung không hạnh phúc, vợ chồng chị sống ly thân với nhau từ giữa năm 2015 cho đến nay. Nên nay chị xin được ly hôn với anh Trần Văn Út L.

- Về con chung: Có 01 con chung tên là Trần Quang N, sinh ngày 26/10/2015, hiện đang chung sống với chị, từ khi có con đến nay anh Út L không quan tâm và chăm sóc vợ con, cháu N là do chị nuôi dưỡng từ đó đến nay, để không làm xáo trộn tâm sinh lý của con nên khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi dưỡng cháu N, chị không yêu cầu anh Út L phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có.

- Về nợ chung: Không có.

* Bị đơn anh Trần Văn Út L không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H, mặc dù Tòa án đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng đúng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay:

- Chị H xác định từ khi về bên nhà anh Út L sinh sống thì anh Út L không quan tâm đến đời sống vợ con, khi nhậu về là anh Út L hay kiếm chuyện và đánh chị. Chị và anh Út L ly thân từ tháng 3 năm 2020 âm lịch cho đến nay. Chị xác định vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với anh Út L; Về con chung chị yêu cầu tiếp tục được nuôi dưỡng con chung là cháu Trần Quang N, sinh ngày 26/10/2015, không yêu cầu anh Út L cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung, nợ chung: chị xác định không có.

- Anh Út L: Vắng mặt không có lý do mặc dù Tòa án đã tống đạt hợp lệ nhiều lần.

- Phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật, người tham gia tố tụng nguyên đơn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng. Bị đơn vắng mặt không đảm bảo theo quy định tại khoản 16 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nhận thấy: Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn phía chị H cho rằng do bất đồng quan điểm sống, không hợp tính tình, vợ chồng thường xuyên cải nhau, anh Út L không quan tâm đến đời sống vợ con, cuộc sống chung không hạnh phúc. Theo chính quyền địa phương giữa chị H và anh Út L có mâu thuẫn cự cãi nhưng không L. Tuy nhiên, phía anh Út L mặc dù được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do, không cung cấp ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị H hay ý kiến mong muốn vợ chồng được hàn gắn, đoàn tụ chứng tỏ anh không muốn hàn gắn quan hệ vợ chồng. Từ những phân tích trên cho thấy quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh Út L đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H được ly hôn với anh Út L.

- Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung là cháu Trần Quang N, sinh ngày 26/10/2015, hiện đang sống chung với chị H, đồng thời theo biên bản xác minh ở chính quyền địa phương thì anh Út L làm nghề bốc vác, công việc không ổn định. Xét thấy, để cháu N được nuôi dưỡng tốt và tránh xáo trộn tâm lý của cháu thì nên giao cháu cho chị H nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng do phí chị H không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không tranh chấp không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Do đó căn cứ Điều 51, 56, 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị H và anh Trần Văn Út L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 07 tháng 10 năm 2015 tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện C, tỉnh T nên được pháp luật công nhận là vợ chồng theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Nay chị H và anh Út L phát sinh mâu thuẫn, nên chị H xin ly hôn với anh Út L. Theo xác nhận của ông Lê Chí Cường – Phó Công an xã M, huyện C, tỉnh T xác nhận: “Trần Văn Út L, sinh ngày 12/02/1984, hiện tại có đăng ký hộ khẩu thường trú ấp M1, xã M, huyện C, tỉnh T”. Vì vậy tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T theo quy định khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Anh Trần Văn Út L là bị đơn trong vụ án, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh đã vắng mặt không lý do chính đáng, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan là từ bỏ quyền và nghĩa vụ của mình được pháp luật bảo vệ nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh Út L trong vụ án này.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Chị H xác định sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc được đến giữa năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, không hợp tính tình, vợ chồng thường xuyên cải nhau, anh Út L không quan tâm đến đời sống vợ con. Khi nhậu về anh Út L còn kiếm chuyện và đánh chị làm cuộc sống chung không hạnh phúc. Chị và anh Út L đã ly thân với nhau từ tháng 3 năm 2020 âm lịch cho đến nay.

Nay chị H nhận thấy tình cảm không còn nữa nên chị quyết định khởi kiện ly hôn đối với anh Trần Văn Út L.

Anh Út L không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện cũng như nguyên nhân mâu thuẫn mà phía chị H đưa ra. Mặc dù theo biên bản xác minh ngày 04/11/2020 do anh Võ Quang Thái – Công an ấp M1, xã M, huyện C cung cấp: “… giữa chị H và anh Út L có mâu thuẫn cự cãi nhau nhưng không L…”. Nhưng Tòa án đã tống đạt văn bản tố tụng nhiều lần, anh Út L vẫn bỏ mặc không có văn bản thể hiện ý kiến, nguyện vọng của mình là muốn duy trì quan hệ hôn nhân này. Chị H xác định từ khi ly thân cho đến nay anh Út L không đến thăm chị và con. Do đó, Hội đồng xét xử đủ cơ sở xác định tình cảm vợ chồng không còn, tình trạng hôn nhân của chị H và anh Út L là không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu xin ly hôn của chị H là có căn cứ, phù hợp quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Giữa chị H và anh Út L có 01 con chung là cháu là Trần Quang N, sinh ngày 26/10/2015, hiện do chị H nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị H yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh Út L cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy từ khi chị H và anh Út L ly thân đến nay do chị H nuôi dưỡng, chăm sóc con chung. Anh Út L không có ý kiến gì về việc nuôi con chung. Do đó, để đảm bảo sự phát triển và quyền lợi của cháu N, Hội đồng xét xử xét cần giữ nguyên hiện trạng, tiếp tục giao cháu Trần Quang N cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp.

[4] Về tiền cấp dưỡng nuôi con chung: Chị H không yêu cầu anh Út L cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Anh Trần Văn Út L có quyền tới lui, thăm nom chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định pháp luật.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị H xác định không có. Anh Út L không có ý kiến trình bày hay yêu cầu về tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xét đề nghị của Vị Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp, cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 271, 273, 278, 280 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Các Điều 24, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử: 1. Về hôn nhân: Chấp nhận cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Trần Văn Út L.

2. Về con chung: Tiếp tục giao con chung là cháu Trần Quang N, sinh ngày 26/10/2015 cho chị Nguyễn Thị H nuôi dưỡng. Anh Trần Văn Út L không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Nguyễn Thị H không có yêu cầu.

Anh Trần Văn Út L có quyền tới lui, thăm nom chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định pháp luật 3. Về tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết do không có yêu cầu.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Chị H đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0004105 ngày 06/10/2020 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện C. Xem như chị H đã thi hành xong phần án phí.

5. Chị Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; anh Trần Văn Út L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh T xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

6. Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2021/HNGĐ-ST ngày 20/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:16/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Thủy - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về