Bản án 16/2021/HNGĐ-ST ngày 04/02/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 16/2021/HNGĐ-ST NGÀY 04/02/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON 

Trong ngày 04 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 824/2020/TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 176/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đinh Thị Thu N, sinh năm 1989; thường trú: 13A, tổ 14, khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Phạm Quốc T, sinh năm 1983; thường trú: 534 quốc lộ 1K (số cũ: 14B/6 tổ 6) khu phố N, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Chị Đinh Thị Thu N có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, theo đơn khởi kiện ngày 21 tháng 8 năm 2020 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án chị N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Đinh Thị Thu N và anh Phạm Quốc T sau thời gian tìm hiểu nhau thì tự nguyện tiến tới hôn nhân năm 2009, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường B, thành phố D, tỉnh Bình Dương vào ngày 25 tháng 12 năm 2009, Giấy chứng nhận kết hôn số 132, quyển số 02/2009. Sau kết hôn hai vợ chồng về sống chung tại nhà số 534 quốc lộ 1K (số cũ: 14B/6 tổ 6) khu phố N, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương.

Sau khi kết hôn hai vợ chồng sống với nhau hạnh phúc, nhưng được một thời gian thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong lối sống và sinh hoạt, anh T không quan tâm đến gia đình, vợ con nên cuộc sống gia đình trở nên căng thẳng.

Nay chị N xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với anh Phạm Quốc T.

Về con chung: Qúa trình chung sống vợ chồng có 02 con chung tên Phạm Quốc T1, sinh ngày 16/01/2010 và Phạm Quốc K, sinh ngày 16/5/2018. Sau khi ly hôn chị Đinh Thị Thu N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung tên Phạm Quốc T1, sinh ngày 16/01/2010 và Phạm Quốc K, sinh ngày 16/5/2018 và không yêu cầu anh Phạm Quốc T thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Quá trình tố tụng, bị đơn anh Phạm Quốc T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý và các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện do nguyên đơn cung cấp và yêu cầu anh Phạm Quốc T có ý kiến đối với các yêu cầu khởi kiện của chị Đinh Thị Thu N nhưng anh T không có ý kiến gì. Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Phạm Quốc T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 18/11/2020 nhưng anh T vắng mặt không có lý do; đồng thời cũng không có ý kiến và không cung cấp bất cứ tài liệu, chứng cứ gì thể hiện việc đồng ý hay không đồng ý với các yêu cầu khởi kiện của chị N.

- Ngày 10/11/2020 Tòa án xác minh tình trạng hôn nhân, nguyên nhân mâu thuẫn và vấn đề chăm sóc nuôi dạy con chung giữa chị Đinh Thị Thu N và anh Phạm Quốc T tại Hội Liên hiệp phụ nữ phường A và được cung cấp như sau: Chị Đinh Thị Thu N không phải là hội viên hội phụ nữ phường. Trước khi khởi kiện ly hôn tại Tòa án, chị N không có yêu cầu địa phương tổ chức hòa giải cơ sở. Hội Liên hiệp phụ nữ phường A cũng không có tiếp nhận thông tin cung cấp từ đại diện khu phố cũng như người dân phản ảnh. Vì vậy, Hội Liên hiệp phụ nữ phường Bình An không rõ nguyên nhân mâu thuẫn và vấn đề chăm sóc nuôi dạy con chung giữa chị Đinh Thị Thu N và anh Phạm Quốc T. Đề nghị Tòa án căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án theo quy định.

- Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa đã tuân thủ đúng pháp luật về tố tụng dân sự, nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng quy định của pháp luật. Về nội dung: Xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về điều kiện thụ lý vụ án: Chị Đinh Thị Thu N khởi kiện yêu cầu được ly hôn, nuôi con với anh Phạm Quốc T. Anh T cư trú tại 534 quốc lộ 1K (số cũ:

14B/6 tổ 6) khu phố N, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương, nên đây là vụ án tranh chấp ly hôn, nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương được quy định tại khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về việc vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn chị Đinh Thị Thu N có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Anh Phạm Quốc T là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa ngày 04/02/2021 nhưng vắng mặt không có lý do nên căn cứ theo Điều 228, 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt chị Đinh Thị Thu N và anh Phạm Quốc T.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đinh Thị Thu N và anh Phạm Quốc T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 25 tháng 12 năm 2009 tại Ủy ban nhân dân phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương, Giấy chứng nhận kết hôn số 132, quyển số 02/2009, nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Thời gian đầu sau khi kết hôn tình cảm vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc. Nay chị N yêu cầu được ly hôn với anh T với lý do quá trình chung sống anh T và chị không tìm được tiếng nói chung, vợ chồng thường xuyên cải nhau do bất đồng về quan điểm sống, lối sống. Vợ chồng chị đã sống ly thân từ tháng 8/2020 đến nay.

Quá trình tố tụng chị Đinh Thị Thu N xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt nên yêu cầu Tòa án không hòa giải đoàn tụ. Anh Phạm Quốc T, sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã triệu tập anh T đến tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh không có mặt và cũng không có bất kỳ ý kiến gì đối với yêu cầu của nguyên đơn, điều này chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị N yêu cầu ly hôn là có căn cứ, phù hợp với quy định của Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận yêu cầu được ly hôn của chị Đinh Thị Thu N.

[4] Về con chung: Chị Đinh Thị Thu N có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung tên Phạm Quốc T1, sinh ngày 16/01/2010 và Phạm Quốc K, sinh ngày 16/5/2018. Cháu K hiện nay còn nhỏ và đang ở với mẹ, còn cháu T1 hiện đang sinh sống cùng với anh Phạm Quốc T. Xét thấy, quá trình tố tụng tại Tòa án, anh Phạm Quốc T vắng mặt và không có văn bản nào thể hiện ý chí mong muốn được nuôi con chung, để bảo đảm quyền lợi của phụ nữ và con khi ly hôn việc giao cả hai con chung cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình, đồng thời cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu T1. Vì vậy, có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của chị N về việc được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Trong quá trình giải quyết vụ án chị Đinh Thị Thu N tự nguyện không yêu cầu anh Phạm Quốc T phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Xét đề nghị của chị N là hoàn toàn tự nguyện cần được ghi nhận.

[6] Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu Toà án giải quyết.

[7] Từ những phân tích trên có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An về việc giải quyết vụ án.

[8] Án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn: Chị Đinh Thị Thu N phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, các Điều 228, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đinh Thị Thu N được ly hôn với anh Phạm Quốc T (Giấy chứng nhận kết hôn số:132, quyển số 02/2009 do Ủy ban nhân dân phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương cấp ngày 25 tháng 12 năm 2009).

2. Về con chung: Anh Phạm Quốc T giao con chung tên Phạm Quốc T1, sinh ngày 16/01/2010 cho chị Đinh Thị Thu N trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Đinh Thị Thu N được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung tên Phạm Quốc T1, sinh ngày 16/01/2010 và Phạm Quốc K, sinh ngày 16/5/2018. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Đinh Thị Thu N không yêu cầu anh Phạm Quốc T thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, chị Đinh Thị Thu N và anh Phạm Quốc T có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và vấn đề cấp dưỡng.

3. Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đinh Thị Thu N phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn được khấu trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0048684 ngày 14/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố D, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2021/HNGĐ-ST ngày 04/02/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:16/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về