Bản án 16/2020/HS-ST ngày 31/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO YÊN, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 16/2020/HS-ST NGÀY 31/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 14/2020/TLST-HS ngày 31 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn P (Tên gọi khác: Không) - Sinh ngày 12/3/1993 tại huyện H, tỉnh Nam Định;

Nơi cư trú: Thôn L, xã C, huyện B, tỉnh Lào Cai Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn T sinh năm 1964 và con bà Nguyễn Thị T sinh năm 1973, hiện trú tại Thôn L, xã C, huyện B, tỉnh Lào Cai. Vợ,con: Chưa có.

Tiền án: 01. Bản án số 04/2018/HS-ST ngày 09/02/2018 của Toà án nhân dân huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai xử phạt Nguyễn Văn P 09 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản". Ngày 09/8/2018 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, ngày 27/4/2018 bị cáo thi hành án dân sự xong. Tiền sự: Không.

Nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu. Bản án số 17/2011/HSST ngày 20/12/2011 của Toà án nhân dân huyện Bảo Yên xử phạt Nguyễn Văn P 01 năm tù về tội "Trộm cắp tài sản". Ngày 08/9/2012 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, đã được xoá án tích. Quyết định số 01/2016/QĐ-TA ngày 04/02/2016 của Toà án nhân dân huyện Bảo Yên áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Nguyễn Văn P thời gian 12 tháng, ngày 25/8/2017 bị cáo chấp hành xong quyết định. Bị cáo bị tạm giữ ngày 04/6/2020, tạm giam ngày 10/6/2020, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 00 phút ngày 04/6/2020 bị cáo đi xe ôm từ nhà xuống xã B, huyện B, khi đến địa phận xã T, huyện V bị cáo nhìn thấy H (người quen trú tại thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai) nên đã xuống xe gặp H. Bị cáo nói với H "cho mượn xe đi một lúc có việc", H đồng ý và cho bị cáo mượn xe mô tô Honda Wave màu xanh. Bị cáo điều khiển xe đi đến thị trấn K, huyện V vào quán nước ven đường ngồi uống nước. Tại đây bị cáo gặp một người đàn ông không quen biết, qua trao đổi người đàn ông biết bị cáo nghiện hút ma tuý và nói với bị cáo "anh có ít hàng chú có lấy không?", bị cáo hỏi "có nhiều không?", người đàn ông trả lời "anh có 02 triệu, đưa tiền anh chỉ cho". Sau đó cả hai đi ra ngoài khoảng 20-30m, bị cáo đưa cho người đàn ông 2.000.000đ và người này chỉ tay về phía bụi cỏ ven đường nói "ở trong vỏ mỳ tôm kia". Bị cáo đi lại cầm gói mì tôm mở ra thấy bên trong có 01 gói nilon màu trắng, bị cáo mở gói nilon ra thấy bên trong có 06 gói nhỏ. Bị cáo mở 01 gói nhỏ kiểm tra thấy bên trong có chất bột khô vón cục màu trắng, bị cáo biết là Heroine nên gói lại và cất vào túi quần bên phải. Sau khi mua ma tuý, bị cáo điều khiển xe về xã T, huyện V trả xe cho H sau đó đi nhờ xe về bản L, xã B. Đến khoảng 11h30 phút cùng ngày khi bị cáo đang đi bộ theo đường dân sinh vào khu vực nhà máy giấy thuộc bản L, xã B thì bị bắt quả tang cùng tang vật.

Tại kết luận giám định số 113/GĐMT ngày 09/6/2020của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Lào Cai kết luận: 06 gói nhỏ chứa chất bột khô, vón cục, màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn P có khối lượng 1,14 gam là loại chất ma tuý Heroine. Tại bản cáo trạng số 15/CT-VKSBY ngày 29/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai truy tố bị cáo Nguyễn Văn P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và không đề nghị gì. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứng, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy 1,02 gam ma túy còn lại sau giám định. Tuyên trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động Vsmart và 01 chiếc điện thoại di động Masstel, tuy nhiên cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án khoản tiền án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Xét thấy trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp, đúng với quy định của pháp luật.

[2].Về tội danh: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Văn P khai nhận do nghiện ma tuý nên ngày 04/6/2020 bị cáo đã tàng trữ 06 gói ma tuý với mục đích sử dụng cho bản thân. Vật chứng thu giữ của bị cáo gồm 06 gói nhỏ bên trong chứa chất bột khô, màu trắng, vón cục có khối lượng 1,14 gam đã được kết luận là chất ma tuý Heroine. Như vậy có đủ cơ sở để khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai truy tố bị cáo Nguyễn Văn P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Về hình phạt: Bị cáo Nguyễn Văn P là người có năng lực trách nhiệm hình sự và hiểu biết pháp luật, bị cáo đã 02 lần bị xử phạt tù về hành vi trộm cắp tài sản trong đó có 01 lần chưa được xoá án tích, ngoài ra bị cáo đã từng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng bị cáo đã không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục vi phạm pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, vì vậy cần phải có một mức án thật nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là "tái phạm" quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản gì nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về các vấn đề có liên quan trong vụ án: Liên quan đến vụ án có người đàn ông tên H đã cho bị cáo mượn xe Honda Wave màu xanh và người đàn ông đã bán ma tuý cho bị cáo tại TT K, huyện V. Quá trình điều tra không xác định được căn cước lai lịch những người này nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

[7]. Về vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra đã thu giữ 1,14 gam Heroine, cơ quan giám định đã sử dụng 0,12 gam và hoàn lại 1,02 gam, xét thấy đây là vật chứng thuộc diện cấm lưu hành nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy. Cơ quan điều tra còn thu giữ 01 chiếc điện thoại di động Vsmart màn hình cảm ứng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel bàn phím cơ đều đã qua sử dụng, hiện đang bảo quản tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Bảo Yên. Quá trình điều tra xác định 02 chiếc điện thoại thuộc sở hữu của bị cáo, bị cáo không sử dụng điện thoại làm công cụ phương tiện phạm tội nên cần tuyên trả lại cho bị cáo.

[8]. Về đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo: Xét thấy đề nghị của Kiểm sát viên về điều luật áp dụng và mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi. Tại phiên tòa bị cáo không đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9]. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn P phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P 01 năm 09 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/6/2020.

2. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 1,02 gam Heroine được niêm P bằng bì thư của Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Lào Cai. Bề mặt P bì ghi: “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu trong vụ Nguyễn Văn P ngày 04/6/2020 tại bản Lâm Sản, xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai".

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn P 01 chiếc điện thoại di động Vsmart màu xanh đen màn hình cảm ứng, số model V320A Made in Vietnam máy cũ đã qua sử dụng; 01 chiếc điện thoại di động màu đỏ đen nhãn hiệu Masstel máy bàn phím có số IMEI 1: 355314102330624, máy cũ đã qua sử dụng.

3. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu phí, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn P phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2020/HS-ST ngày 31/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:16/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Yên - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về