Bản án 16/2020/HS-ST ngày 21/05/2020 về tội buôn bán hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TRÀ VINH, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 16/2020/HS-ST NGÀY 21/05/2020 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Trong ngày 21 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 14/2020/HSST, ngày 16 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2020/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Huỳnh Lộc T, sinh năm 1987; nơi cư trú: khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh; nghề nghiệp: tài xế; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Phước D, sinh năm 1960 và bà Lê Thị Kim L, sinh năm 1966. Bị cáo có vợ tên Đặng Thị Hồng T, sinh năm 1990 và con tên Huỳnh Gia B, sinh năm 2014. Tiền án, tiền sự: không. Bị bắt tạm giữ từ ngày 21/12/2019 đến ngày 24/12/2019 chuyển sang tạm giam cho đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa;

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Lê Tất C, sinh năm 1972 (vắng mặt) Nơi cư trú: số 452/27/18 P N L, khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

2. Chị Lê Nguyễn Phương U, sinh năm 1976 (vắng mặt) Nơi cư trú: khu tập thể Bưu điện thuộc khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

3. Chị Đặng Thị Hồng T, sinh năm 1990 (có mặt) Nơi cư trú: khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do quen biết từ trước nên vào khoản 19 giờ 30 phút ngày 20/12/2019, bị cáo Huỳnh Lộc T trực tiếp điện thoại cho chị Lê Nguyễn Phương U, sinh năm 1976, cư ngụ khu tập thể Bưu Điện thuộc khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, nhờ thuê dùm 01 (một) xe ô tô 07 chỗ để bị cáo đưa đón khách, thì chị U đồng ý. Sau đó, chị U điện thoại cho anh Lê Tất C, sinh năm 1972, ngụ số 452/27/18, đường P N L, khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, hỏi thuê xe dùm cho bị cáo.

Đến khoảng 06 sáng ngày 21/12/2019, chị U điện thoại cho bị cáo nói đã thuê được xe ô tô 07 chỗ, nhãn hiệu Toyota, loại Innova, mang biển số: 84A- 031.32 của anh C, hiện đang đậu tại bãi xe Hương T thuộc khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, khi nào cần thì đến đó lấy xe.

Đến khoảng 10 giờ 00 cùng ngày, bị cáo đến bãi lấy xe và trực tiếp điều khiển chạy đến cửa khẩu Thomo thuộc huyện Đức Huệ, tỉnh Long An, gặp người thanh niên khoảng 47 tuổi tên Rum chạy xe ôm (không rõ nhân thân và địa chỉ), hỏi mua thuốc lá điếu nhập lậu với số lượng 350 cây nhãn hiệu Hero và Jet, anh Rum trả lời không có thuốc lá điếu nhập lậu để bán cho bị cáo nhưng biết có người khác bán nên anh Rum lấy điện thoại liên lạc để trao đổi việc mua bán thuốc lá. Sau khi trao đổi xong, anh Rum nói với bị cáo có người đồng ý bán thuốc lá điếu cho bị cáo với giá bán như sau: Đối với thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu Hero bán 01 cây với giá 134.500 đồng (01 cây có chứa 10 bao, mỗi bao chứa 20 điếu thuốc lá), còn thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu Jet bán 01 cây với giá 164.500 đồng (01 cây có chứa 10 bao, mỗi bao chứa 20 điếu thuốc lá), khi nghe anh Rum nói vậy bị cáo liền đồng ý mua với số lượng 200 cây thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu Hero và 150 cây thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu Jet. Sau đó anh Rum điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) chạy trước, còn bị cáo điền khiển xe ô tô chạy theo sau, khi điều khiển xe chạy được khoảng 02km thì cả hai dừng lại tại một khu đất trống. Lúc này, bị cáo nhìn thấy có ba người thanh niên đứng chờ sẵn, bên cạnh có nhiều túi nylon màu đen, bên trong có thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu Hero và Jet, bị cáo tiến đến hỏi ba người thanh biên này tổng cộng số thuốc lá điếu nhập lậu là bao nhiêu cây thì một trong ba người thanh niên này trả lời đủ 350 cây thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu Hero và Jet, sau đó ba người thanh niên này chất số thuốc lá điếu nhập lậu lên xe ô tô mang biển số 84A-031.32 có sự kiểm tra của bị cáo. Chất số thuốc lá lên xe xong, bị cáo lấy tiền 51.575.000 đồng (năm mươi một triệu năm trăm bảy mươi lăm nghìn đồng), trả cho một trong ba người thanh niên vừa bán số thuốc lá cho bị cáo, đồng thời bị cáo lấy ra 100.000 đồng cho anh Rum. Sau khi mua được thuốc lá, bị cáo điều khiển xe ô tô chạy về thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

Đến khoảng 21 giờ 00 cùng ngày, bị cáo chở số thuốc lá điếu nhập lậu vừa mua được về đến đường nhựa thuộc khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, bị cáo đậu xe tại đầu hẻm số 71. Sau đó, bị cáo điện thoại cho vợ chị Đặng Thị Hồng T , sinh năm 1990, ngụ khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, ra đầu hẻm lấy đồ về nhà, đến khoảng 05 phút sau chị T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Nouvo, màu đỏ-đen, mang biển số 84C1-027.64 đến đậu kế bên xe ô tô của bị cáo. Bị cáo liền xuống xe mở cốp sau xe định lấy số thuốc lá điếu nhập lậu để lên xe chị T chở về nhà cất giấu thì chị T không đồng ý nên giữa bị cáo và chị T xảy ra cự cãi lớn tiếng nhau. Trong lúc cự cãi thì bị lực lượng Công an đến kiểm tra phát hiện bắt quả tang. Đồng thời, tạm giữ số tang vật gồm:1.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu Jet; 2.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu Hero và 01 (một) xe ô tô nhãn hiệu Toyota, loại Innova, mang biển số 84A-031.32.

Đối với chị Đặng Thị Hồng T (vợ bị cáo), quá trình điều tra được biết việc bị cáo đi mua thuốc lá điếu nhập lậu về bán lại kiếm lời chị T hoàn toàn không biết nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh, không đặt vấn đề xử lý.

Đối với người thanh niên khoảng 47 tuổi tên Rum chạy xe ôm và ba người thanh niên trực tiếp bán 3.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu Jet và Hero cho bị cáo, quá trình khởi tố điều tra bị cáo khai nhận không rõ nhân thân và địa chỉ cũng như tên tuổi những người này, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh, chưa xác minh làm rõ xử lý được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với chị Lê Nguyễn Phương U và anh Lê Tất C, quá trình điều tra được biết việc chị U điện thoại cho anh C thuê xe ô tô dùm bị cáo để đưa đón Khách. Khi thuê được xe bị cáo dùng để chở thuốc lá điếu nhập lậu về bán lại kiếm lời chị U và anh C hoàn toàn không biết nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh, không đặt vấn đề xử lý.

Về vật chứng: Thu giữ trong lúc bắt quả tang, đã tiến hành giám định niêm phong hiện nay còn đang tạm giữ. Riêng 01 (một) xe ô tô nhãn hiệu Toyota, loại Innova, mang biển số 84A-031.32, qua điều tra xác định được đây là tài sản của anh Lê Tất Chiến không liên quan đến vụ án nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh, ra Quyết định trả lại cho chủ sở hữu xong.

Tại bản cáo trạng số 18/CT-VKS-HS ngày 16/3/2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố Huỳnh Lộc T về tội “Buôn bán hàng cấm” theo Điểm e khoản 2 Điều 190 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo Huỳnh Lộc T phạm tội “Buôn bán hàng cấm” như bản cáo trạng đã nêu. Sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án và nhân thân của bị cáo. Vị đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm e khoản 2 Điều 190; điểm s khoản 1,2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Huỳnh Lộc T từ 03 năm đế 04 năm tù. Đồng thời đề nghị xử lý tang vật chứng và buộc bị cáo nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Trà Vinh, Điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Huỳnh Lộc T đã khai nhận: Vào khoảng 10 giờ ngày 21/12/2019 bị cáo điều khiển xe ô tô 07 chổ hiệu Toyota, loại Inova biển số 84A-031.32 từ thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh đến cửa khẩu Thomo thuộc huyện Đức Huệ, tỉnh Long An mua 2000 bao thuốc lá điếu hiệu Hero và 1500 bao thuốc lá điếu hiệu Jet với giá 51.575.000 đồng. Sau khi mua xong bị cáo chở số thuốc trên về thành phố Trà Vinh định bán lại kiếm lời, nhưng khi về đến đầu hẻm số 71 khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh thì vợ bị cáo chị Đặng Thị Hồng T không đồng ý và kêu bị cáo đem trả lại số thuốc trên cho người bán, nhưng bị cáo không đồng ý và xảy ra cự cải nhau, thì bị lực lượng Công an đến kiểm tra bắt quả tang cùng tang vật.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với tang vật chứng đã thu giữ cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Huỳnh Lộc T đã phạm vào tội “Buôn bán hàng cấm” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm e khoản 2 điều 190 Bộ luật hình sự. Như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng không bổ sung tài liệu, đồ vật và không đề nghị triệu tập thêm người tham gia tố tụng. Xác định tư cách người tham gia tố tụng theo quyết định đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Xét thấy bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh truy tố bị cáo Huỳnh Lộc T về tội “Buôn bán hàng cấm” theo Điểm e khoản 2 điều 190 Bộ luật hình sự là phù hợp với quy định của pháp luật, không oan, không sai.

[4] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo chỉ vì ham lợi, chạy theo lợi nhuận bất chấp pháp luật, đã xâm phạm nghiêm trọng đến việc quản lý của nhà nước trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại, gây tác động xấu đến tình hình trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Do đó, cần xử lý nghiêm đối với bị cáo là cần thiết.

Tuy nhiên, khi phạm tội bị cáo chưa tiền án, tiền sự; đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có thời gian làm công tác dân quân tự vệ tại địa phương 02 năm; bị cáo có ông ngoại là ông Lê Quang T và bà ngoại là bà Phan Thị P đều được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhất. Là tình tiết giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở.

Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Tất C và Lê Nguyên Phương U không có yêu cầu và có đơn xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[5] Về vật chứng: 1.500 bao thuốc lá hiệu Jet; 2.000 bao thuốc lá hiệu Hero;

01 giấy chứng minh nhân dân số 334431309 tên Huỳnh Lộc T, sinh ngày 28/7/1987; 01 giấy phép lái xe số 860137002034 tên Huỳnh Lộc T; 01 điện thoại di động hiệu VEGA màu trắng loại cảm ứng, kèm sim số 0901078581 đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu NOKIA màu đen loại bàn phím CODE 0592166, IMEI: 357698106936461 kèm sim số 0766977565 đã qua sử dụng. Nghĩ nên tịch thu tiêu hủy và trả lại cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Lộc T phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

Căn cứ: Điểm e khoản 2 Điều 190; điểm s khoản 1,2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Lộc T 03 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/12/2019. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Tất C và Lê Nguyên Phương U không có yêu cầu. Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

Căn cứ: Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 1.500 bao thuốc lá hiệu Jet và 2.000 bao thuốc lá hiệu Hero. Trả lại cho bị cáo Huỳnh Lộc T 01 giấy chứng minh nhân dân số 334431309 tên Huỳnh Lộc T, sinh ngày 28/7/1987; 01 giấy phép lái xe số 860137002034 tên Huỳnh Lộc T; 01 điện thoại di động hiệu VEGA màu trắng loại cảm ứng, kèm sim số 0901078581 đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu NOKIA màu đen loại bàn phím CODE 0592166, IMEI: 357698106936461, kèm sim số 0766977565 đã qua sử dụng.

Căn cứ: Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2020/HS-ST ngày 21/05/2020 về tội buôn bán hàng cấm

Số hiệu:16/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Trà Vinh - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về