Bản án 16/2020/HS-ST ngày 17/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MINH HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 16/2020/HS-ST NGÀY 17/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 19/2020/TLST- HS ngày 14 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2020/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

Đ L Tr Ph, sinh ngày: 24 tháng 4 năm 1983 tại: Xã X H, huyện M H, tỉnh Qu B. Nơi cư trú: Tiểu khu 7, thị trấn Qu Đ, huyện M H, tỉnh Qu B; nghề nghiệp: Sản xuất nông nghiệp; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đ L V, sinh năm 1958 và bà Đ Th H M, sinh năm 1959; vợ, con: Chưa có; tiền sự: 01 tiền sự ( Ngày 23/10/2019 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy); tiền án: Không. Bị cáo bị bắt để tạm giam từ ngày 08/4/2020 cho đến nay, có mặt.

- Người làm chứng: Anh Đ M L (Có mặt) Địa chỉ: Tiểu khu 7, thị trấn Qu Đ, huyện M H, tỉnh Qu B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 21 giờ ngày 03/4/2020, tổ tuần tra Công an huyện Minh Hóa phát hiện Đ M L, sinh năm 1988, ở tiểu khu 7, thị trấn Qu Đ, huyện M H, tỉnh Qu B đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 73C1-088.., nhãn hiệu HONDA, số loại BLADE, màu sơn đen xanh. Chở theo Đ L Tr Ph, sinh năm 1983, trú tại tiểu khu 7, thị trấn Qu Đ, huyện M H, tỉnh Qu B lưu thông trên đường H Ch M hướng từ xã Th H về xã Tr H thuộc địa phận thôn L H, xã Tr H, huyện M H, tỉnh Qu B, khi phát hiện L và Ph có biểu hiện nghi vấn, tổ công tác đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Ngay lúc đó, Ph ngồi phía sau xe đã dùng tay phải lấy trong túi quần phía trước bên phải đang mặc trên người 01 gói nilon màu trắng vứt xuống đường thì bị tổ công tác phát hiện và lập biên bản vụ việc, tiến hành thu giữ và lập biên bản niêm phong gói chất bột màu trắng mà Đ L Tr Ph vừa vứt trước đó. Qúa trình làm việc Đ L Tr Ph đã khai nhận gói nilon bên trong có chứa chất bột màu trắng mà Ph vứt xuống đường, bị lực lượng Công an thu giữ là ma túy loại Heroine, Ph tàng trữ để sử dụng.

Tại Bản kết luận giám định số 469/GĐ-PC 09 ngày 07/4/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình, kết luận: Mẫu ký hiệu A gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,943g (Không phẩy chín trăm bốn mươi ba gam).

Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, Số thứ tự: 09, Danh mục I, Nghị định số 73/2018/NĐ – CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ..

Vật chứng vụ án: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Minh Hóa tạm giữ:

- 01 (Một) gói nilon màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng;

- 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA, màu sơn: đen xanh, biển kiểm soát:

73C1-088.., xe đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong;

- 02 (Hai) bơm kim tiêm;

- 01 (Một) điện thoại di động màu đồng hiệu OPPO, máy đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong.

Cáo trạng số 17/CT-VKSMH ngày 14/5/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Minh Hoá quyết định truy tố bị cáo Đ L Tr Ph về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố cũng như đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Đ L Tr Ph từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Căn cứ vào kết quả thẩm vấn công khai tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà; Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà; lời khai của những người tham gia tố tụng tại phiên toà; ý kiến của đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tại phiên toà bị cáo đã nhất trí hoàn toàn với nội dung bản Cáo trạng đã được đại diện Viện kiểm sát công bố và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với các lời khai của những người tham gia tố tụng, qua đó cho thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Minh Hóa, Viện kiểm sát huyện Minh Hóa, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi của bị cáo: Vào lúc 21 giờ 00 phút ngày 03/4/2020 tại đường H Ch M thuộc địa phận thôn L H, xã Tr H, huyện M H, tỉnh Qu B, Đ L Tr Ph đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,943g chất ma túy, loại Heroine để sử dụng.

Tại phiên tòa bị cáo Đ L Tr Ph đã thừa nhận hành vi phạm tội. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với tài liệu có trong hồ sơ đã được kiểm tra tại phiên tòa. Tại phiên tòa Kiểm sát viên đưa ra quan điểm xét xử vụ án là có căn cứ nên chấp nhận. Do đó Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Đ L Tr Ph phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ” được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Xét tính chất hành vi, hậu quả do bị cáo gây ra vụ án cho thấy: Đây là hành vi phạm tội có tính chất táo bạo và liều lĩnh, xâm phạm đến an ninh, chính trị, trật tự và an toàn xã hội. Vì vậy hành vi trên cần áp dụng một mức hình phạt nghiêm minh nhằm trừng trị, cải tạo thành người tốt và răn đe, giáo dục chung trong xã hội.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Nhân thân: Bị cáo Đ L Tr Ph có nhân thân không tốt, bị cáo đã bị xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Tình tiết tăng nặng: không có tình tiết tăng nặng Tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, thấy được lỗi lầm của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo Ph ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cho bị cáo cải tạo trở thành người có ích trong xã hội và răn đe giáo dục chung. Tuy nhiên tại phiên tòa bị cáo đã thấy được lỗi lầm của mình nên Hội đồng sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được tính khoản hồng của Pháp luật Nhà nước.

[6] Vật chứng vụ án:

Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:

- 01 (Một) phong bì thư dán kín ghi: “469/GĐ-PC09” “Mẫu ký hiệu A” được niêm phong bằng các chữ ký của những người tham gia niêm phong và dấu của Phòng kỹ thuật hình sự;

- 02 (Hai) bơm kim tiêm;

Áp dụng khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự trả lại cho anh Đ M L là người quản lý hợp pháp của tài sản sau.

- 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA, màu sơn: đen xanh, biển kiểm soát:

73C1-088.., xe đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong;

Trả lại cho bị cáo Đ L Tr Ph tài sản sau.

- 01 (Một) điện thoại di động màu đồng hiệu OPPO, máy đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong.

[7] Trong vụ án này còn có Đ M L, sinh năm 1988, ở tại Tiểu khu 7, thị trấn Qu Đ, huyện M H, tỉnh Qu B là người chở Ph đi vào ngày 03/4/2020, tuy nhiên L chỉ đi cùng Ph mà không biết Ph mua ma túy và tàng trữ ma túy trong người trái phép, do đó không xem xét trách nhiệm hình sự đối với L.

[8] Về án phí: Bị cáo Đ L Tr Ph phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩmđể sung công.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đ L Tr Ph phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Đ L Tr Ph. Xử phạt bị cáo Đ L Tr Ph 17 (Mười bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 08/4/2020).

Quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo Đ L Tr Ph 45 ngày để đảm bảo thi hành án.

2. Về vật chứng vụ án:

Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:

- 01 (Một) phong bì thư dán kín ghi: “469/GĐ-PC09” “Mẫu ký hiệu A” được niêm phong bằng các chữ ký của những người tham gia niêm phong và dấu của Phòng kỹ thuật hình sự;

- 02 (Hai) bơm kim tiêm;

Áp dụng khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự trả lại cho anh Đ M L, trú tại: Tiểu khu 7, Thị trấn Qu Đ, huyện M H, tỉnh Qu B là người quản lý hợp pháp của tài sản sau.

- 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA, màu sơn: đen xanh, biển kiểm soát:

73C1-088.., xe đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong;

Trả lại cho bị cáo Đ L Tr Ph tài sản sau.

- 01 (Một) điện thoại di động màu đồng hiệu OPPO, máy đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Đ L Tr Ph phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung công.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (17/6/2020), để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2020/HS-ST ngày 17/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:16/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Minh Hóa - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về