Bản án 16/2020/HNGĐ-ST ngày 27/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ XUYÊN, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 16/2020/HNGĐ-ST NGÀY 27/05/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 303/2019/TLST- HNGĐ ngày 02 tháng 12 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2020/QĐST - HNGĐ ngày 23 tháng 4 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên Tòa số 26/2020/QĐST – HNGĐ ngày 11/5/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lâm Thị Ngọc D, sinh năm 1988.

Địa chỉ: ấp Bưng T, xã Thạnh Q, huyện Mỹ X, tỉnh Sóc T.

- Bị đơn: Ông Trần Minh H, sinh năm 1990.

Địa chỉ: ấp Ng, xã Thạnh Quới, huyện Mỹ X, tỉnh Sóc T.

- Con chung trên 07 tuổi: Cháu Trần Minh Đ, sinh ngày 13/01/2013 (có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: ấp Bưng Th, xã Thạnh Q, huyện Mỹ X, tỉnh Sóc T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện về việc ly hôn ngày 28/10/2019, chứng cứ có trong hồ sơ và tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn bà Lâm Thị Ngọc D trình bày: Bà Lâm Thị Ngọc D và ông Trần Minh H kết hôn vào năm 2012 có đăng ký kết hôn ngày 13/02/2012 tại UBND xã Thạnh Q, huyện Mỹ X, tỉnh Sóc T. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được 01 năm đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn do ông H không lo làm ăn thường xuyên hút chít không chăm lo vợ con. Trong quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung tên Trần Minh Đ, sinh ngày 13/01/2013 hiện đang sống với bà. Nay bà Lâm Thị Ngọc D yêu cầu được ly hôn với ông Trần Minh H.

 - Về con chung: Bà Lâm Thị Ngọc D yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung tên Trần Minh Đạt, sinh ngày 13/01/2013 đến tuổi trưởng thành.

- Về cấp dưỡng: Bà Lâm Thị Ngọc D không yêu cầu ông Trần Minh H cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết

- Đối với bị đơn ông Trần Minh H: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã cấp, tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho ông Trần Minh H theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nhưng ông Trần Minh H không gửi ý kiến bằng văn bản cho Toà án biết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ông Sách cũng không đến Toà án để tham gia phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, không đến tham gia phiên toà xét xử sơ thẩm.

- Tại biên bản lấy lời khai khai 31/01/2020 và tại đơn xin vắng mặt ngày 29/3/2019 con chung trên 07 tuổi Trần Minh Đ, sinh ngày 13/01/2013 trình bày:

Khi cha mẹ cháu không còn sống chung nữa, nguyện vọng của cháu xin được sống với mẹ và cho cháu xin vắng mặt tại các phiên tòa vì cháu bận đi học Tại phiên tòa hôm nay, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý, xét xử vụ án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và đương sự đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, bị đơn ông Trần Minh H đã được cấp, tống đạt các văn bản tố tụng theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự, vụ án được đưa ra xét xử đến lần thứ hai nhưng ông H vẫn vắng mặt không có lý do, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn ông Trần Minh H. Còn cháu Trần Minh Đ có đơn xin xét xử vắng mặt đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vắng mặt cháu Trần Minh Đ.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 4 điều 147; Điều 271; khoản 1 Điều 273; Điều 278 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

Áp dụng khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56; khoản 1, khoản 2 Điều 81; khoản 1, khoản 3 Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lâm Thị Ngọc D; Về con chung: Giao cho bà Lâm Thị Ngọc D được quyền chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Trần Minh Đ, sinh ngày 13/01/2013 (theo nguyện vọng của cháu Đ); Ông Trần Minh H được quyền thăm nom con chung, không ai được quyền cản trở; Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Lâm Thị Ngọc D không yêu cầu nên không đặt ra xem xét; Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết, nên không đặt ra xem xét; Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về tố tụng: Bị đơn, ông Trần Minh H đã được cấp, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự, vụ án được đưa ra xét xử đến lần thứ hai, nhưng ông H vẫn vắng mặt, nên Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn ông Trần Minh H. Còn cháu Trần Minh Đ có đơn xin xét xử vắng mặt đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vắng mặt cháu Trần Minh Đạt.

Về nội dung:

[1] Vụ kiện của bà Lâm Thị Ngọc D và ông Trần Minh H là loại kiện hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Bà Lâm Thị Ngọc D và ông Trần Minh H kết hôn vào năm 2012 có đăng ký kết hôn ngày 13/02/2012 tại Ủy ban nhân dân xã Thạnh Quới, huyện Mỹ Xuyên. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa bà Lâm Thị Ngọc D và ông Trần Minh H là hôn nhân hợp pháp. Tại phiên tòa hôm nay, bà D vẫn kiên quyết yêu cầu ly hôn với ông H, vì kể từ tháng 3 năm 2017 đến nay bà và ông H không còn sống chung, không còn quan tâm nhau, bà không còn tình cảm với ông H, kể từ khi bà gửi đơn yêu cầu ly hôn đến Tòa án, bà và ông Hạnh không còn liên hệ với nhau, giữa bà và ông H không thể hàn gắn được tình cảm vợ chồng. Hội đồng xét xử nhận thấy mâu thuẩn xảy ra vào tháng 10 năm 2018, đã hơn 02 năm nay hai bên vẫn không có thiện chí tìm cách hàn gắn đoàn tụ. Từ đó tình cảm vợ chồng đã phai nhạt, mâu thuẩn ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân giữa bà D và ông H không đạt được, tình trạng hôn nhân không thể kéo dài, nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận đơn khởi kiện về việc ly hôn của bà Lâm Thị Ngọc D, bà Lâm Thị Ngọc D được ly hôn với ông Trần Minh H.

[2] Về con chung: Bà Lâm Thị Ngọc D và ông Trần Minh H có 01 người con, tên Trần Minh Đ, sinh ngày 13/01/2013 hiện nay con chung đang sống với bà D. Bà D yêu cầu được quyền nuôi con, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, khi bà D và ông H không còn chung sống với nhau cháu Trần Minh Đ, sinh ngày 13/01/2013 vẫn do bà D trực tiếp nuôi dưỡng, để đảm bảo cuộc sống của cháu Trần Minh Đ, sinh ngày 13/01/2013. Ngoài ra tại biên bản lấy khai ngày 31/01/2020 cháu Trần Minh Đ, sinh ngày 13/01/2020 có nguyện vọng sống với mẹ.

Nên Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng khoản 1, 2 Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của luật hôn nhân và gia đình giao cho bà Lâm Thị Ngọc D được quyền chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Trần Minh Đ, sinh ngày 13/01/2013 đến tuổi trưởng thành.

Ông Lâm Sách được quyền thăm nom con chung, không ai được quyền cản trở.

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Lâm Thị Ngọc D không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

[4] Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét. [5] Về nợ chung: Bà Lâm Thị Ngọc D trình bày không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí sơ thẩm: Bà Lâm Thị Ngọc D phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm theo định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

[7] Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 4 điều 147; Điều 271; khoản 1 Điều 273; Điều 278 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5, 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

Áp dụng khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56; khoản 1, khoản 2 Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lâm Thị Ngọc D được quyền ly hôn với ông Lâm Sách.

2. Về con chung: Giao cho bà Lâm Thị Ngọc D được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Trần Minh Đ, sinh ngày 13/01/2013 (theo nguyện vọng của cháu Trần Minh Đ) đến tuổi trưởng thành.

3. Ông Trần Minh H được quyền thăm nom con chung, không ai được quyền cản trở.

4. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Lâm Thị Ngọc D không yêu cầu nên không đặt ra xem xét

5. Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết, nên không đặt ra xem xét.

6. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

7. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Lâm Thị Ngọc D phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí bà D đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0000040 ngày 29/11/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên. Như vậy, bà D đã nộp xong.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đối với bị đơn ông Trần Minh H thì thời gian kháng cáo nêu trên được tính từ ngày nhận được hoặc ngày niêm yết bản án để xin Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2020/HNGĐ-ST ngày 27/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:16/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Xuyên - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về