Bản án 16/2020/HNGĐ-ST ngày 08/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 16/2020/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 08 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 80/2020/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2020 về tranh chấp "Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 6 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số: 30/2020/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị T, sinh năm: 1984

Địa chỉ: Tổ 33, phường T, quận S, thành phố Đà Nẵng (Có mặt).

- Bị đơn: Ông Phạm D, sinh năm: 1977

Địa chỉ: Tổ 33, phường T, quận S, thành phố Đà Nẵng (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

-Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Đỗ Thị T trình bày:

Về hôn nhân: Bà Đỗ Thị T và ông Phạm D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, quận S, thành phố Đà Nẵng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 295 ngày 11/12/2018. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại tổ 33 phường T, quận S, thành phố Đà Nẵng. Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do không hợp nhau, vợ chồng thường xuyên cãi vã. Bà Đỗ Thị T xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Toà án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Phạm D.

Về con chung: Bà Đỗ Thị T xác định bà và ông Phạm D có 02 con chung là Phạm Thủy T, sinh ngày 24/01/2015 và Phạm Đỗ P, sinh ngày 27/11/2006. Khi Tòa án giải quyết ly hôn bà yêu cầu được nuôi con chung Phạm Thủy T, giao cho ông Phạm D nuôi con chung Phạm Đỗ P, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

-Bị đơn ông Phạm D đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng và triệu tập hợp lệ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, tuy nhiên ông vẫn vắng mặt, không có ý kiến.

-Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng:

Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã tuân theo đúng pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử.

Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Thư ký đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại khoản 5 Điều 51 Bộ luật tố tụng dân sự.

Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến thời điểm mở phiên tòa, người tham gia tố tụng là nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt đã không chấp hành các quy định của pháp luật.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị T đối với ông Phạm D: Về hôn nhân: Cho bà Đỗ Thị T được ly hôn với ông Phạm D. Về con chung: Giao con chung Phạm Thủy T cho bà Đỗ Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, giao cho con Phạm Đỗ P cho ông Phạm D trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con chung thanh niên; Bà T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập đến; Về tài sản chung: Bà Đỗ Thị T xác định vợ chồng tự thỏa thuận và nợ chung: Bà Đỗ Thị T xác định không có, ông Phạm D vắng mặt không có ý kiến nên đề nghị Tòa án không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Sau khi đại diện Viện Kiểm sát phát biểu quan điểm. Sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

[1.1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung” là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2]. Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn ông Phạm D cư trú tại quận S thành phố Đà Nẵng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng theo quy định tại điểm điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.3]. Bị đơn ông Phạm D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa không có lý do nên nên Hội đồng xét xử vắng bị đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung vụ án:

[2.1]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa bà Đỗ Thị T và ông Phạm D xác lập trên cơ sở tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước thẩm quyền là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Bà Đỗ Thị T xác định trong quá trình chung sống giữa vợ chồng ông bà phát sinh mâu thuẫn do không hợp nhau, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã.

Theo xác minh tại địa phương, giữa bà Đỗ Thị T và ông Phạm D có xảy ra mâu thuẫn, to tiếng với nhau, sống không hòa thuận. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng, triệu tập hợp lệ nhưng ông Phạm D vẫn vắng mặt không có lý do, việc ông Phạm D không đến Tòa án trình bày ý kiến, không tham gia hòa giải, không tham gia phiên tòa cho thấy ông không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Thực tế quan hệ hôn nhân giữa ông bà được xác lập lần đầu từ năm 2005, đến năm 2016 ông bà đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 02/2016/QĐST-HNGĐ ngày 24/02/2016 của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, năm 2018 ông bà đăng ký kết hôn trở lại và nay bà Đỗ Thị T tiếp tục có yêu cầu ly hôn. Hội đồng xét xử thấy rằng đời sống chung giữa bà Đỗ Thị T và ông Phạm D không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu ly hôn của bà Đỗ Thị T phù hợp Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình, nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà Đỗ Thị T được ly hôn với ông Phạm D.

[2.2]. Về con chung: Bà Đỗ Thị T xác định vợ chồng bà có 02 con chung chưa thành niên. Khi ly hôn bà có nguyện vọng được nuôi con chung Phạm Thủy T, sinh ngày 24/01/2015 và giao cho ông Phạm D nuôi con chung Phạm Đỗ P, sinh ngày 27/11/2006. Ông Phạm D vắng mặt không có yêu cầu về việc nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy: Các bên đương sự đều có công việc làm đo dó có đủ điều kiện về kinh tế để nuôi con. Ông Phạm D còn có nhà ở riêng đảm bảo điều kiện về chỗ ở tại tổ 33 phường T, quận S, thành phố Đà Nẵng. Con chung Phạm Đỗ P đã trên 07 tuổi và cũng có nguyện vọng được ở với ông D. Căn cứ vào Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con chung của bà Đỗ Thị T, giao cho bà Đỗ Thị T trực tiếp nuôi dưỡng con chung Phạm Thủy T, giao cho ông Phạm D trực tiếp nuôi con Phạm Đỗ P cho đến khi các con chung lần lượt thành niên.

[2.3]. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Đỗ Thị T không yêu cầu, ông Phạm D không có ý kiến về việc cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: bà Đỗ Thị T xác định bà và ông Phạm D tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, về nợ chung bà xác định không có, ông Phạm D vắng mặt nên không có ý kiến do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[3]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì bà Đỗ Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí tranh chấp hôn nhân và gia đình.

[4]. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

[5]. Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình; Điểm a khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung” của bà Đỗ Thị T đối với ông Phạm D.

1. Về hôn nhân: Bà Đỗ Thị T được ly hôn với ông Phạm D.

2. Về con chung: Giao con chung Phạm Thủy T, sinh ngày 24/01/2015 cho bà Đỗ Thị T trực tiếp nuôi dưỡng và giao con chung Phạm Đỗ P, sinh ngày 27/11/2006 cho ông Phạm D trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các con chung lần lượt thành niên.

Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật. Khi cần thiết vì lợi ích của con chung, cha mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, cấp dưỡng nuôi con.

3. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Đỗ Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm bà Đỗ Thị T đã nộp theo biên lai thu số: 0008424 ngày 21 tháng 02 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận S, thành phố Đà Nẵng.

4. Bà Đỗ Thị T có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Ông Phạm D vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2020/HNGĐ-ST ngày 08/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:16/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về