Bản án 16/2020/DS-ST ngày 15/10/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH LỘC – TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 16/2020/DS-ST NGÀY 15/10/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 15 tháng 10 năm 2020 tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 24/2020/TLST- DS ngày 23 tháng 6 năm 2020 về “ tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2020/QĐXXST - DS ngày 10 tháng 9 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 17/2020/QĐST – DS ngày 29 tháng 9 năm 2020 đối với các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trịnh Thị T – Sinh năm: 1980, anh Lê Văn H – Sinh năm 1980.

Đều trú tại: Khu 1, thị trấn V, huyện V, tỉnh T.

Người đại diện theo ủy quyền cho anh Lê Văn H là: Chị Trịnh Thị T(theo giấy ủy quyền ngày 22/6/2020).

Có mặt tại phiên tòa 2. Bị đơn: Anh Trịnh Văn T1 – Sinh năm: 1980 Trú tại: Thôn X, xã T, huyện V, tỉnh T.

Anh T1 vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 02 không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 19 tháng 6 năm 2020, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Trịnh Thị T trình bày:

Ngày 06 tháng 7 năm 2017 vợ chồng chị có cho anh Trịnh Văn T1 trú tại thôn Xuân Giai, xã Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc vay 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng) để đảo nợ ngân hàng, thời hạn vay đến ngày 06/8/2017. Khi vay anh T1 có viết giấy vay tiền và hai bên có thỏa thuận miệng với nhau lãi suất là 3%/tháng. Đến hạn không thấy anh T1 trả tiền nên vợ chồng chị đã đến nhà anh T1 để đòi nhiều lần nhưng anh T1 vẫn khất lần không trả. Vì anh Trịnh Văn T1 không có thiện chí trả nợ nên chị T, anh H đề nghị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lộc buộc anh Trịnh Văn T1 phải có trách nhiệm trả cho chị T, anh H số tiền nợ gốc đã vay là 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng) và tiền lãi phát sinh trên số tiền nợ gốc theo mức lãi suất mà pháp luật quy định tính từ ngày vay cho đến khi trả nợ xong.

Bị đơn anh Trịnh Văn T1 sau khi thụ lý vụ án đã được Tòa án tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng, triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên không lấy được lời khai của anh T1.

Tại Biên bản xác minh ngày 10/9/2020, Công an xã T, huyện V, tỉnh Thanh Hóa nơi anh Trịnh Văn T1 đăng ký hộ khẩu thường trú cho biết: Anh Trịnh Văn T1 hiện nay không có mặt tại địa phương nhưng anh T1 thường xuyên về nhà tại thôn X, xã T. Tại biên bản xác minh ngày 10/9/2020, ông Trịnh Văn C là bố đẻ của anh T1 khẳng định, anh T1 hiện nay không có mặt tại địa phương, anh T1 đi làm ăn xa nhưng vẫn thường xuyên về nhà. Tất cả các văn bản tố tụng Tòa án giao mà ông C nhận thay cho anh T1, ngay khi nhận được văn bản của Tòa án ông đều gọi điện thoại đọc cho anh T1 nghe nội dung cũng như khuyên bảo anh T1 về để Tòa án giải quyết, nhưng anh T1 nói bận công việc nên không về được cứ để Tòa án giải quyết vắng mặt anh T1. Tuy là bố đẻ của anh T1 nhưng ông C chỉ biết anh T1 đang làm ăn trong Miền Nam chứ không biết cụ thể địa chỉ của anh T1.

Tại phiên tòa, chị Trịnh Thị Tvẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đề nghị Hội đồng xét xử buộc anh T1 phải có trách nhiệm trả cho vợ chồng chị T, anh H số tiền nợ gốc đã vay là 60.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh theo quy định của pháp luật tính từ ngày anh T1 vi phạm nghĩa vụ trả nợ.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa như sau:

- Về tố tụng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến phiên tòa hôm nay, thấy rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký Tòa án đã thực hiện đúng nhiệm vụ và quyền hạn của mình và tuân theo đúng quy định của pháp luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn đã tuân theo đúng quy định của pháp luật, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 02 không có lý do.

- Về nội dung: Qua nghiên cứu hồ sơ cũng như kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trịnh Thị T, anh Lê Văn H buộc anh Trịnh Văn T1 phải có trách nhiệm trả đầy đủ số tiền nợ gốc là 70.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh theo quy định của pháp luật cho vợ chồng chị T, anh H.

- Về án phí: Anh Trịnh Văn T1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định của pháp luật. Trả lại cho chị T, anh H toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và trong quá trình giải quyết vụ án Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Về tư cách đương sự và thẩm quyền giải quyết vụ án: Do anh Trịnh Văn T1 có vay nợ của vợ chồng chị Trịnh Thị T, anh Lê Văn H số tiền là 60.000.000 đồng. Quá hạn trả nợ, anh T1 không trả nên chị T, anh H khởi kiện ra Tòa án yêu cầu anh T1 phải trả số tiền đã vay là 60.000.000 đồng và số tiền lãi phát sinh. Bị đơn anh Trịnh Văn T1, trú tại: Thôn X, xã T, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa theo khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 điều 35 và điểm a khoản 1 điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập anh Trịnh Văn T1 đến Tòa án để làm bản tự khai nhưng anh T1 không đến Tòa án để làm việc nên Tòa án không lấy được lời khai của anh T1. Tòa án đã tống đạt thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho các bên đương sự nhưng anh T1 không đến Tòa án. Tòa án tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ vắng mặt anh T1 và không tiến hành hòa giải được vụ án. Tòa án đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ cho anh T1 theo khoản 3 Điều 210 BLTTDS. Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại điều 220 của Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Trịnh Văn T1 đã được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa theo đúng quy định của pháp luật nhưng vẫn cố Tvắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh T1 là đúng theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Bị đơn anh Trịnh Văn T1 không nộp văn bản ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo, mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng là vi phạm nghĩa vụ giao nộp chứng cứ nên Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự khác đã giao nộp để giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ tranh chấp và điều luật áp dụng: Trên cơ sở chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, cũng như lời trình bày của nguyên đơn và căn cứ vào khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 463 Bộ luật dân sự 2015 vụ án có quan hệ pháp luật “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

[3] Về nội dung: Quá trình giải quyết vụ án anh Trịnh Văn T1 không đến Tòa án làm việc cho dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, căn cứ vào giấy vay tiền ngày 06/7/2017 thể hiện anh Trịnh Văn T1 có vay của vợ chồng chị Trịnh Thị T, anh Lê Văn H số tiền là 60.000.000đồng (Sáu mươi triệu đồng), thời hạn vay đến ngày 06/8/2017. Như vậy, khẳng định hợp đồng vay tài sản giữa vợ chồng chị T, anh H và anh T1 là hợp đồng vay tài sản có thời hạn. Anh T1 đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán như đã cam kết. Do đó, chị T, anh H yêu cầu anh T1 phải trả nợ cho chị T, anh H số tiền gốc đã vay là 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng) là có căn cứ nên được chấp nhận. Buộc anh Trịnh Văn T1 phải có trách nhiệm trả cho vợ chồng chị Trịnh Thị T, anh Lê Văn H số tiền nợ gốc đã vay là 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng) là phù hợp với quy định tại Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015.

[4] Về lãi suất: Giao dịch dân sự giữa chị T, anh H và anh T1 trong giấy vay nợ không thể hiện lãi suất, chị T, anh H không chứng minh được anh T1 vay số tiền 60.000.000 đồng vào ngày 06/7/2017, thời hạn đến ngày 06/8/2017 với lãi suất khi vay là 3%/tháng, quá trình giải quyết vụ án anh T1 vắng mặt nên không lấy được lời khai của anh T1. Nên khẳng định đây là hợp đồng vay tài sản không lãi, có thời hạn. Anh T1 đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền nên yêu cầu của chị T, anh H buộc anh T1 phải trả lãi theo mức lãi suất mà pháp luật quy định tính từ ngày anh T1 vi phạm hợp đồng là phù hợp với quy định tại Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 với mức lãi suất là 10%/ năm:

Từ ngày 07/8/2017 đến 15/10/2020 là 38 tháng 08 ngày = 60.000.000 đồng x 0,833% x 38 tháng 08 ngày = 19.125.680 đồng ( Mười chín triệu một trăm hai mươi lăm nghìn sáu trăm tám mươi đồng).

Tng cộng tiền gốc và lãi anh Trịnh Văn T1 phải trả cho vợ chồng chị Trịnh Thị T, anh Lê Văn H là 60.000.000 đồng + 19.125.680 đồng = 79.125.680 đồng (Bảy mươi chín triệu một trăm hai mươi lăm nghìn sáu trăm tám mươi đồng).

[6] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của chị Trịnh Thị T, anh Lê Văn H được chấp nhận nên anh Trịnh Văn T1 phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch tương ứng với số tiền phải trả nợ. Trả lại cho chị Trịnh Thị T, anh Lê Văn H số tiền tạm ứng án phí đã nộp là phù hợp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 điều 39; khoản 1 Điều 96, khoản 1 Điều 147, khoản 3 Điều 210, Điều 220, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 280, Điều 357, Điều 463, Điều 466, khoản 2 Điều 468, khoản 1Điều 470 của Bộ luật dân sự 2015. Khoản 1 Điều 6, điểm b khoản 1 Điều 24, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trịnh Thị T, anh Lê Văn H về việc buộc anh Trịnh Văn T1 phải trả số tiền nợ gốc đã vay và tiền lãi phát sinh.

2. Buộc anh Trịnh Văn T1 phải có trách nhiệm trả cho chị Trịnh Thị T, anh Lê Văn H số tiền nợ gốc là 60.000.000 đồng và 19.125.680 đồng tiền lãi. Tổng số tiền anh T1 phải trả là: 79.125.680 đồng (Bảy mươi chín triệu một trăm hai mươi lăm nghìn sáu trăm tám mươi đồng).

Kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật và người có quyền thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ nói trên thì phải chịu thêm lãi suất theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án tính từ ngày 16/10/2020, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

4. Về án phí: Buộc anh Trịnh Văn T1 phải nộp 3.956.284đồng (Ba triệu chín trăm năm mươi sáu nghìn hai trăm tám mươi tư đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

Trả lại cho chị Trịnh Thị T, anh Lê Văn H số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.500.000đồng ( Một triệu năm trăm nghìn đồng), theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí Tòa án số AA/2018/0004682 ngày 22/6/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự được bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2014 thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự và điều 7a, 7b Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2014, thời hiệu thi hành án được thc hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự .

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2020/DS-ST ngày 15/10/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:16/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Lộc - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về