Bản án 16/2019/HS-ST ngày 12/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ PHONG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 16/2019/HS-ST NGÀY 12/03/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 3 năm 2019, tại Tòa án nhân dân huyện Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 20/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2019/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Lương Văn T: Tên gọi khác: Không; sinh năm 1968, tại huyện Q, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Bản M, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Nguyên trồng trọt; trình độ văn hóa: Không học; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lương Văn C (Đã chết); con bà Hà Thị C (Đã chết); có vợ: Hà Thị L và 03 người con; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân T: Năm 2002 bị Tòa án nhân dân huyện Q xử phạt 30 tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”; năm 2009 bị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xử phạt 09 năm tù về các tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy và mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/11/2018. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Lương Văn T: Bà Nguyễn Thị Quỳnh T, Trợ giúp viên trợ giúp pháp lý, chi nhánh trợ giúp pháp lý số 2 thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 19/11/2018 có một người gọi điện thoại cho bị cáo tự xưng là L, hỏi mua ma túy với bị cáo. Hai bên thỏa thuận giá cả, số lượng, thời gian, địa điểm giao hàng. Đến 18 giờ cùng ngày L đến nhà bị cáo và đưa cho bị cáo 1.000.000 đồng; bị cáo cầm tiền và vào trong buồng lấy 18 viên hồng phiến, 01 gói Heroin ra đưa cho L thì bị bắt quả tang. Thu 18 viên nén màu hồng, 01 gói chất bột màu trắng, 01 chiếc điện thoại di động và 1.000.000 đồng. Lợi dụng sơ hở người đàn ông đến mua ma túy với bị cáo bỏ trốn.

Tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q qua xác định trọng lượng gói chất bột màu trắng thu giữ của Lương Văn T có khối lượng 0,1 gam; 18 viên nén màu hồng có khối lượng 1,8 gam.

Bản kết luận giám định số 15/KL-PC09(MT) ngày 23/11/2018 của phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận:

Chất bột màu trắng thu giữ của Lương Văn T gửi tới giám định là Heroin, có khối lượng 0,1 gam (Không phẩy một gam); các viên nén màu hồng thu giữ của Lương Văn T gửi tới giám định là Methamphetamine, có khối lượng 1,8 gam (Một phẩy tám gam).

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Lương Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Cụ thể: Vào lúc 18 giờ, ngày 19/11/2018 tại bản M, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An, Lương Văn T đang có hành vi bán trái phép chất ma túy thì bị bắt quả tang, thu giữ một gói Heroin có khối lượng 0,1 gam, 18 viên Methamphetamine có khối lượng 1,8 gam, 01 chiếc điện thoại di động và 1.000.000 đồng tiền bán trái phép chất ma túy mà có.

Bản cáo trạng số 27/CT-VKS-HS ngày 23/02/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Lương Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Đối với người đến mua ma túy với bị cáo, do không xác minh được họ tên và địa chỉ nên không có cơ sở để điều tra xử L.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Q vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã kết luận và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106; Điều 135; Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lương Văn T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại; tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại và 1.000.000 đồng; miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Người bào chữa không tranh luận về tội danh và đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ và xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử, kiểm sát viên thực hiện quyền công tố, thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Mặc dù không được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép, nhưng vào lúc 18 giờ, ngày 19/11/2018 tại bản M, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An, bị cáo Lương Văn T đang bán trái phép chất ma túy thì bị bắt quả tang. Thu của bị cáo 0,1 gam Heroin và 1,8 gam Methamphetamine. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước. Do đó bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết nhân T, tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, mà còn làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe, nòi giống của con người, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng; bị cáo có nhân T xấu. Vì vậy cần xét xử nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt có ích cho xã hội, răn đe và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên sau khi phạm tội bị cáo khai báo thành khẩn đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Q đề nghị xử phạt bị cáo Lương Văn T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù; người bào chữa đề nghị xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa là thấp so với số lượng ma túy thu giữ và nhân T của bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo không có việc làm ổn định, thu nhập thấp, điều kiện kinh tế khó khăn, không có tài sản đáng giá. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với 0,1 gam Heroin. Cơ quan điều tra đã lấy đi giám định chất ma túy hết; đối với 18 viên Methamphetamine, cơ quan điều tra đã lấy đi giám định chất ma túy 4 viên, còn lại 14 viên, đây là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc điện thoại di động là phương tiện phạm tội, đối với số tiền 1.000.000 đồng là tiền do phạm tội mà có nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[7] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Lương Văn T phạm tội “”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Phạt Lương Văn T 04 (Bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 19/11/2018.

Căn cứ vào các điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ 14 (Mười bốn) viên Methamphetamine thu giữ của bị cáo Lương Văn T.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SYMPHONY- B17 màu xanh đậm và 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) thu giữ của bị cáo Lương Văn T.

Chi tiết vật chứng được ghi cụ thể trong biên bản giao nhận ngày 26/01/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q với Chi cục thi hành án dân sự huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Căn cứ vào Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lương Văn T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Lương Văn T có quyền kháng cáo bản án lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2019/HS-ST ngày 12/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:16/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Phong - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về