Bản án 16/2019/HS-ST ngày 09/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LÁT, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 16/2019/HS-ST NGÀY 09/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09/7/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hoá, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 14/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 6 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2019/QĐXXST-HS ngày 26/6/2019 đối với bị cáo:

Hạng A V ; Sinh năm 1988 tại: Xã Lóng Sập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản Khằm I, xã Trung Lý, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa. Dân tộc: Mông; Tôn giáo: Tin Lành. Nghề nghiệp: Trồng trọt. Trình độ học vấn: 7/12. Con ông: Hạng Pó C - Sinh năm: 1950. Đang thụ lý án ở huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Con bà: Vàng Thị N, sinh năm: 1955. Nơi cư trú: Huyện Đăk Glong, tỉnh Đắc Nông. Vợ: Vàng Thị Đ, sinh năm: 1991. Đang thụ lý án ở trại giam Thanh Lâm. Có 02 con, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2011. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/11/2019 đến nay. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Ngọc K - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý số 1, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa. Có măt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 16/11/2018, bị cáo đi từ nhà sang bản Khằm Nàng (Lào) tìm mua ma túy sử dụng, bị cáo gặp một người đàn ông dân tộc Mông (Lào) tên là D, mua 98 (chín tám) viên hồng phiến (ma túy tổng hợp) với số tiền là 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng) và mua heroin với số tiền 1.200.000đ (một triệu hai trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy bị cáo đi về, đem cất giấu vào trong rừng. Đến khoảng 17 giờ 30 phút ngày 22/11/2018, bị cáo bỏ ma túy vào hộp sữa bằng kim loại rồi mang vào nhà Hơ Thị D, sinh năm 1980 cùng trú tại bản Khằm I, xã Trung Lý, sau đó hai người cùng nhau sử dụng ma túy tại nhà Dia, khi đang sử dụng thì bị lực lượng Công an huyện Mường Lát bắt quả tang và tiến hành kiểm tra, phát hiện thu giữ toàn bộ số ma túy còn lại của bị cáo. Quá trình làm việc bị cáo có khai báo với lực lượng Công an huyện Mường Lát còn một số lượng ma túy khác đang để trong rừng sẽ dẫn Công an đi thu giữ, trong lúc đi trên đường, lợi dụng địa hình phức tạp nhiều cây cối rậm rạp, trời tối nên bị cáo đã trốn vào trong rừng. Ngày 24/1/2018, bị cáo đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường Lát để đầu thú.

Tại bản Kết luận giám định số: 50/MT-PC09 ngày 28 tháng 11 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận:

- 90 (chín không) viên nén màu hồng, hình tròn trên bề mặt mỗi viên có dập chìm chữ “WY” của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 9,611g (chín phẩy sáu một một gam) loại: Methamphetamine.

- 02 (hai) viên nén màu xanh, hình tròn trên bề mặt có dập chìm chữ “WY” của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,218g (không phẩy hai một tám gam) loại: Methamphetamine.

- Các cục màu trắng ngà dạng nén của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 11,542g (một một phẩy năm bốn hai gam) loại: Heroin.

Quá trình điều tra bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bản cáo trạng số 16/CT-VKS-MT ngày 03/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 điều 249 BLHS năm 2015. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Về tội danh: Tuyên bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái pháp chất ma túy”.

+ Về điều luật: Áp dụng: Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; điểm n khoản 2 điều 249 BLHS đối với bị cáo.

+ Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+ Về vật chứng: Đề nghị HĐXX xem xét xử lý theo quy định của pháp luật.

+ Về án phí: Bị cáo là hộ nghèo được miễn án phí theo quy định.

Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo đồng tình với quan điểm truy tố của VKS về tội danh, điều luật áp dụng và khung hình phạt. Nhưng cho rằng, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, học vấn ít không hiểu biết pháp luật, công tác phổ biến tuyên truyền pháp luật về tác hại của ma túy không đến được với nhân dân; các con còn nhỏ, hiện tại đang nhờ chú ruột và mẹ vợ của bị cáo chăm sóc, nuôi dạy. Đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt, tạo điều kiện cho bị cáo yên tâm cải tạo, sớm được trở về với gia đình và xã hội để nuôi dạy con cái, bản thân trở thành công dân có ích cho xã hội, nhưng vẫn có tính phòng ngừa chung. Bị cáo làm nghề trồng trọt, thu nhập không ổn định nên đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo nhận tội, đồng tình với lời bào chữa, không thay đổi, bổ sung thêm gì làm thay đổi nội dung vụ án, không có ý kiến tranh luận với đại diện VKS, lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo một mức án thấp nhất của khung hình phạt, để bị cáo sớm được về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng: Của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Lát, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố; Tòa án nhân dân huyện Mường Lát, Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Trợ giúp viên pháp lý là người bào chữa cho bị cáo, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Chứng cứ xác định có tội, không có tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Xét lời khai nhận tội của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và chứng cứ khác trong hồ sơ, đủ cơ sở khẳng định bị cáo tàng trữ 9,829g Methamphetamine và 11,542g heroin với tổng trọng lượng ma túy là 21,371g, nhằm mục đích sử dụng cho bản thân đã cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý độc quyền các chất ma túy của Nhà Nước, ma tuý hiện nay đang trở thành hiểm họa lớn cho toàn xã hội và còn là nguyên nhân phát sinh những tội phạm khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Với hành vi của bị cáo, tính chất vụ án, năng lực chịu trách nhiệm hình sự và trọng lượng ma túy bị cáo tàng trữ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm n khoản 2 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại các cơ quan tố tụng cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải, bị cáo đã ra đầu thú nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS tại điểm s khoản 1; khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Mặt khác, nhân thân bị cáo có tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, đã được xóa án tích nên bị coi là nhân thân xấu. Với các tình tiết này Hội đồng xét xử xem xét xử bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật.

[4] Xét về hình phạt:

- Hình phạt chính: Bị cáo là người sử dụng ma túy, với tính chất nghiêm trọng của tội phạm về ma túy, xét nhân thân và hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo khỏi xã hội nhằm cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

- Hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo làm nương rẫy, điều kiện kinh tế khó khăn, lại là hộ nghèo nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Xét về vật chứng trong vụ án:

Số ma túy tang vật vụ án thu giữ của bị cáo còn lại sau khi giám định là chất Nhà nước cấm lưu hành, cần Tịch thu tiêu hủy.

Một vỏ hộp sữa hình trụ tròn bằng kim loại; một bật lửa ga màu đỏ đã qua sử dụng; Một miếng giấy bạc, đã qua sử dụng là đồ vật không còn giá trị sử dụng cần tịch thu, tiêu hủy [6] Xét về phần án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo thuộc hộ nghèo nên được miễn án phí HSST và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[7] Các nhận định khác:

Đối với người đàn ông dân tộc Mông tên là Di ở bàn Khằm Nàng (Lào) là người đã bán ma túy cho bị cáo. Việc mua bán giữa Di và bị cáo diễn ra ngoài lãnh thổ Việt Nam nên không đủ điều kiện xác minh làm rõ.

Đối với Hờ Thị Dia, quá trình điều tra xác định D có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường Lát đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với D về hành vi trên.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên: Bị cáo Hạng A V phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuýÁp dụng: Điều 260 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm n khoản 2 điều 249; Điều 38; Điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Hạng A V 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (24/11/2018).

Về tang vật: Áp dụng điểm c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy:

Phong bì đựng ma túy do phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành ghi vụ Hơ Thị D, được dán kín niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên của Nguyễn Trần Đăng, Lại Thị Thanh Loan, Phạm Văn Hiếu và các hình dấu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa làm giáp lai, phong bì niêm phong còn nguyên vẹn.

Một vỏ hộp sữa hình trụ tròn bằng kim loại; một bật lửa ga màu đỏ đã qua sử dụng; Một miếng giấy bạc.

Vật chứng kể trên đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa, theo Quyết định chuyển vật chứng số 15/QĐ-VKSML ngày 03/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/6/2019 giữa Công an huyện Mường Lát và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Lát.

Về án phí: Áp dụng điều 135, điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điểm đ, khoản 1 điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14, quy định về mức thu, miễn, giảm,thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Tuyên: Miễn tiền án phí HSST cho Bị cáo .

Án xử công khai, có mặt bị cáo và người bào chữa cho bị cáo. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2019/HS-ST ngày 09/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:16/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Lát - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về