TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN – TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 16/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 15/5/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 24/2018/TLST-HNGĐ, ngày 13 tháng 12 năm 2018, về tranh chấp ly hôn theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2019/QĐXX-ST ngày 04/5/2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Tòng Thị V - Sinh năm: 1985. "Có mặt"
Trú tại: Đội A, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.
2. Bị đơn: Anh Quàng Tiến D - Sinh năm: 1986. "Có mặt"
Trú tại: Đội A, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn xin ly hôn đề ngày 13/12/2018 và trong quá trình tố tụng tại Tòa án nhân dân huyện Điện Biên nguyên đơn chị Tòng Thị V trình bày:
Về hôn nhân: Tôi và anh D lấy nhau và có đăng ký kết hôn vào ngày 07/3/2006 tại UBND xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Kết hôn hoàn toàn tự nguyện, chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh D ngoại tình, anh D đã viết cam đoan là không tái phạm nữa, nhưng anh D vẫn không sửa chữa mà vẫn còn quan hệ với nhiều phụ nữ khác. Hiện nay tình cảm vợ chồng không còn tôi đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh D.
Về con chung: Chị V khai vợ chồng có 02 con chung là: Cháu Quàng Thế Q, sinh ngày 17/11/2006 và cháu Quàng Thế T, sinh ngày 04/5/2009. Chị V có nguyện vọng xin được nuôi cả hai cháu, không yêu cầu Tòa án giải quyết phần cấp dưỡng nuôi con chung.
Tại bản tự khai của cháu T có nguyện vọng muốn được ở với mẹ. Về tài sản:
Tài sản riêng, nợ phải trả, nợ lấy về: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tài sản chung, đất ruộng: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 25/12/2018 và trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án bị đơn anh Quàng Tiến D trình bày:
Về hôn nhân: Tôi và cô V lấy nhau đều tự nguyện, không ai bị ép buộc có đăng ký kết hôn từ năm 2006 tại UBND xã T, huyện Đ. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2015. Anh D công nhận có quan hệ với người phụ nữ khác. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hợp nhau nên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, ngoài ra cũng do công việc của tôi cũng không phù hợp và dẫn đến chán nản, không hạnh phúc. Nay cô V xin ly hôn, tôi cũng đồng ý ly hôn.
Về con chung: Anh D công nhận vợ chồng có 02 con chung: Cháu Quàng Thế Q, sinh ngày 17/11/2006 và cháu Quàng Thế T, sinh ngày 04/5/2009. Anh D có nguyện vọng xin được nuôi cháu Q, không yêu cầu Tòa án giải quyết phần cấp dưỡng nuôi con chung.
Tại bản tự khai của cháu Q có nguyện vọng muốn được ở với bố.
Về tài sản:
Tài sản riêng, nợ phải trả, nợ lấy về: không có.
Tài sản chung, diện tích ruộng nương: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về quan hệ pháp luật: Căn cứ đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo của nguyên đơn chị Tòng Thị V, Tòa án xác định đây là vụ án: Tranh chấp ly hôn.
[2]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị V xin ly hôn với anh D, anh D có hộ khẩu thường trú tại xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Điện Biên theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39/BLTTDS năm 2015.
[3]. Về điều luật áp dụng: Chị V và anh D lấy nhau năm 2006, đến năm 2018 thì chị V khởi kiện xin ly hôn, nên Tòa án sẽ áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.
[4]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Tòng Thị V và anh Quàng Tiến D lấy nhau có đăng ký kết hôn. Do vậy, hôn giữa hai người là hợp pháp. Quá trình chung sống do tính tình không hợp nhau, do công việc anh D hay đi làm xa nhà và có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác. Tình cảm vợ chồng giữa chị V với anh D đã xảy ra mâu thuẫn từ năm 2015 đến nay. Hai người đã sống ly thân một thời gian. Anh D và chị V hiện nay đều xác định tình cảm vợ chồng giữa hai người không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị V xin ly hôn và anh D cũng đồng ý ly hôn là phù hợp với các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5]. Về con chung: Hai vợ chồng cã 02 con chung, anh D đề nghị được nuôi 01 con chung, chị V có nguyện vọng được nuôi cả 02 con chung. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt của con chưa thành niên.
Qua quá trình giải quyết thì anh D và chị V ai cũng có khả năng nuôi con chung. Anh D có nguyện vọng muốn được trực tiếp nuôi cháu lớn là Quàng Thế Q, chị V có nguyện vọng muốn được trực tiếp nuôi cháu bé là Quàng Thế T. Tại bản tự khai của cháu Q, cháu T cũng có nguyện vọng như trên.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật HN&GĐ nên HĐXX chấp nhận yêu cầu của anh Dũng, giao cháu Quàng Thế Q cho anh D trực tiếp chăm sóc, giáo dục; giao cháu Quàng Thế T cho chị V trực tiếp chăm sóc, giáo dục.
Về cấp dưỡng nuôi con: Chị V và anh D thỏa thuận không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung Hội đồng xét xử xét thấy việc tự thỏa thuận giữa hai người là phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.
[6].Về tài sản:
[6.1]. Tài sản riêng, nợ phải trả, nợ lấy về: Chị V và anh D không có.
[6.2]. Tài sản chung, diện tích ruộng, nương: Chị V và anh D đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[7]. Về án phí: Căn cứ Điều 147/Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Chị Tòng Thị V phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm là 300. 000đ (ba trăm ngàn đồng) được trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 235; Điều 264 và Điều 267/BLTTDS (Năm 2015);
- Áp dụng: Các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
1- Tuyên xử: Chị Tòng Thị V được ly hôn với anh Quàng Tiến D.
2- Về con chung: Giao con chung là Quàng Thế Q, sinh ngày 17/11/2006 cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Giao con chung là Quàng Thế T, sinh ngày 04/5/2009 cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Anh D và chị V không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên đương sự, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con chung.
3- Về Tài sản:
3.1. Tài sản riêng, nợ phải trả, nợ lấy về: Không có.
3.2. Tài sản chung, diện tích ruộng nương: Không xem xét giải quyết.
4- Về án phí: Căn cứ Điều 147/BLTTDS; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Chị V phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ, được trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số: AA/2016/0002966 ngày 13/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên, chị V đã nộp đủ.
5. Về quyền kháng cáo: Chị V, anh D được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 16/2019/HNGĐ-ST ngày 15/05/2019 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 16/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/05/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về