Bản án 16/2019/HNGĐ-ST ngày 09/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ C, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 16/2019/HNGĐ-ST NGÀY 09/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 09 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 167/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 3 năm 2019 về: “Ly hôn; tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2019/QĐXX-ST ngày 24 tháng 4 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn H, sinh năm 1981; địa chỉ: Tổ 2, ấp L, xã Đ, thị xã C, tỉnh Bình Dương; vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Đoàn L, sinh năm 1977; địa chỉ nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã B, huyện T, tỉnh Long An; địa chỉ tạm trú: Tổ 2, ấp L, xã Đ, thị xã C, tỉnh Bình Dương; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 19/3/2019, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án; nguyên đơn chị Nguyễn H trình bày:

Chị và anh Đoàn L chung sống với nhau từ năm 2009, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân xã B, huyện T, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 34/2009 do Ủy ban nhân xã B, huyện T, tỉnh Long An cấp ngày 08/9/2009. Thời gian đầu, chị và anh Lchung sống hạnh phúc, đến khoảng tháng 6 năm 2018, giữa chị và anh L bắt đầu xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, dẫn đến việc anh L thường xuyên đánh đập, bạo hành chị, nguyên nhân do anh L ghen tuông không có căn cứ. Chị và anh L đã ly thân từ tháng 12 năm 2018 cho đến nay.

Nay chị yêu cầu ly hôn với anh L.

Về con chung: Chị và anh Đoàn L có 02 con chung tên Đoàn N, sinh ngày 19/12/2003 và Đoàn T, sinh ngày 14/10/2009. Chị yêu cầu được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Đoàn N, chị không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi cháu N. Còn cháu Đoàn T, giao cho anh Đoàn L tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, chị không cấp dưỡng nuôi cháu T.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị và anh L không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Lời khai trong quá trình tham gia tố tụng, bị đơn anh Đoàn L trình bày:

Anh thống nhất với lời trình bày của chị H về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung, nợ chung. Về tình trạng hôn nhân, anh thừa nhận vào khoảng tháng 6/2018 giữa anh và chị H bắt đầu xảy ra mâu thuẫn, cãi vã nguyên nhân do nghi ngờ chị H có quan hệ bất chính với người khác, trong lúc cải vã, do bực tức nên anh có túm tóc chị Hkhoảng 04 đến 05 lần. Đối với lời trình bày của chị H cho rằng anh thường xuyên đánh đập chị H là không đúng, anh không đánh đập chị H. Nay anh không đồng ý ly hôn với chị H do anh còn tình cảm với chị H.

Về con chung: Anh và chị Nguyễn H có 02 con chung tên Đoàn N, sinh ngày 19/12/2003 và Đoàn T, sinh ngày 14/10/2009. Anh yêu cầu được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu T, anh không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi cháu Tấn. Còn cháu Đoàn N, anh đồng ý giao cháu cho chị Nguyễn H tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, anh không cấp dưỡng nuôi cháu N.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh và chị H không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, Anh Đoàn L trình bày: Anh giữ nguyên lời trình bày về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung, nợ chung. Nay anh đồng ý ly hôn với chị H; về con chung: Anh yêu cầu được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Đoàn T, anh không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi cháu T; còn cháu Đoàn N, anh đồng ý giao cháu Ngọc cho chị H tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, anh không cấp dưỡng nuôi cháu N; về tài sản chung, nợ chung: Anh và chị H không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Thời hạn thụ lý, giải quyết vụ án; việc cấp tống đạt văn bản pháp luật và việc tuân thủ quy định pháp luật của người tham gia tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Căn cứ Điều 56, các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn H đối với bị đơn anh Đoàn L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn H vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt chị Hồng.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn H và anh Đoàn L sống chung và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân xã B, huyện T, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 34/2009 do Ủy ban nhân xã B, huyện T, tỉnh Long An cấp ngày 08/9/2009, quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh L là hợp pháp. Chị H cho rằng, thời gian đầu chị và anh L chung sống hạnh phúc nhưng đến khoảng tháng 6/2018 giữa chị và anh L thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, bất đồng quan điểm, nguyên nhân do anh L ghen tuông không có căn cứ, nay chị yêu cầu được ly hôn với anh L. Trong quá trình tố tụng, anh L đều thừa nhận từ khoảng tháng 6/2018 cuộc sống hôn nhân giữa anh và chị H thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, do anh nghi ngờ chị H có quan hệ bất chính với người khác, trong lúc cải vã, anh có túm tóc chị Hkhoảng 04 đến 05 lần, hiện anh và chị H đã ly thân từ khoảng tháng 12/2018 cho đến nay, nhưng anh không đồng ý ly hôn với chị H. Tại phiên tòa, anh L đồng ý ly hôn với chị H, điều này cho thấy hôn nhân giữa chị H và anh L đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được; Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cần cho chị H được ly hôn với anh L là phù hợp.

[3] Về con chung: Chị H và anh L đều trình bày có 02 con chung tên Đoàn K, sinh ngày 19/12/2003 và Đoàn T, sinh ngày 14/10/2009. Nay chị H yêu cầu tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu N, còn T giao cho anh L tiếp tục trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục, chị H, anh L không phải cấp dưỡng nuôi con; anh L đồng ý theo yêu cầu của chị Hg. Xét thấy, tại các Biên bản lấy lời khai cùng ngày 02/4/2019 của cháu N, cháu T, đều thể hiện, nguyện vọng của cháu N được chung sống với chị H, nguyện vọng của cháu T được chung sống với anh L. Do đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu N cho chị H trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; giáo cháu Tcho anh L trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, ghi nhận chị H, anh L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là phù hợp với nguyện vọng của cháu N, cháu T và phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Nguyễn H, anh Đoàn L đều tự khai không có, không yêu cầu gì, nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[5] Xét lời trình bày của đại diện Viện Kiểm sát về thủ tục tố tụng, nội dung vụ hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Hồng, là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn H phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, khoản 2 Điều 81, các Điều 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 144, 147; khoản 1 Điều 228 và Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn H được ly hôn với anh Đoàn L.

2. Về con chung: Giao cháu Đoàn N, sinh ngày 19/12/2003 cho chị Nguyễn H tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Giao cháu Đoàn T, sinh ngày 14/10/2009 cho anh Đoàn L tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ghi nhận chị Nguyễn H, anh Đoàn L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Nguyễn H, anh Đoàn L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Nguyễn H, anh Đoàn L tự khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0038639 ngày 26/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã C, tỉnh Bình Dương; chị H đã nộp đủ tiền án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Đoàn L có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Nguyễn H có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2019/HNGĐ-ST ngày 09/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:16/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về