Bản án 16/2018/HS-ST ngày 25/05/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀNG ĐỊNH, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 16/2018/HS-ST NGÀY 25/05/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 22 tháng 5 năm 2018 tại: Phòng xét xử của Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 12/2018/HSST ngày 26 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2018/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Hoàng Minh K; Giới tính: Nam; sinh ngày 14 tháng 02 năm 1992 tại huyện T, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu và nơi thường trú: Thôn P, xã H, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; dân tộc: Tày; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: Lớp 11/12; con ông Hoàng Minh K, và bà Lương Thị V; có vợ và 01 con; anh, chị em ruột: Có 03 chị em, bị cáo là con thứ 2 trong gia đình; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Không có án tích và bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 01/12/2017 đến nay; có mặt.

2. Lô Vũ L; giới tính: Nam; sinh ngày 23 tháng 01 năm 1992 tại huyện T, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu và nơi thường trú: Thôn P, xã Đ, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; dân tộc: Nùng; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; con ông Lô Văn D và bà Đàm Thị L; vợ, con: Chưa có; anh, chị em ruột: Có 02 anh em, bị cáo là con cả trong gia đình; tiền án: Có 01 tiền án, ngày 31/8/2015 bị Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn, xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Gây rối trật tự công cộng”; tiền sự: Không có; nhân thân: Không bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 01/12/2017 đến nay; có mặt.

3. Đàm Văn V; Giới tính: Nam; sinh ngày 01 tháng 02 năm 1989 tại huyện T, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu và nơi thường trú: Thôn C, xã H, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; dân tộc: Nùng; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: Lớp 8/12; con ông Đàm Văn H và bà Nông Thị Y; có vợ và 02 con; anh, chị em ruột: Có 03 anh em, bị cáo là con thứ 3 trong gia đình; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Không có án tích và bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 01/12/2017 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Lục Văn T, sinh năm 1992; trú tại: Thôn B, xã C, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác: Người làm chứng:

Anh Đoàn Văn D, sinh năm 1987; địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

Anh Nguyễn Tiến P, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn B, xã H, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

Anh Nông Văn T, sinh năm 1998; địa chỉ: Thôn P, xã H, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

Anh Nguyễn Thế Q, sinh năm 1995; địa chỉ: Thôn P, xã H, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

Anh Nông Văn A, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn P, xã H, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ, ngày 01 tháng 12 năm 2017, tại thôn P, xã Đ, huyện T, Công an huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang Đoàn Văn D đang có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, thu giữ 01 xi lanh kim tiêm nhựa đã qua sử dụng. D khai xi lanh kim tiêm bị thu giữ là D dùng pha 03 gói ma túy vừa mua với Hoàng Minh K tại nhà của Lô Vũ L ở thôn P, xã Đ, huyện T với số tiền 100.000 đồng/01 gói để sử dụng. Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Tràng Định đã tiến hành khám xét chỗ ở của Lô Vũ L, phát hiện thu giữ được 145 gói giấy nhỏ bên trong có chứa chất bột mầu trắng ở trên giường ngủ tại tầng 2 cùng với sự có mặt của Hoàng Minh K đang ở tại đó và tạm giữ của K 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA; 1.100.000 đồng, tạm giữ của L 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO. K khai nhận số ma túy mà công an thu giữ là chất ma túy Heroine do khoảng 18 giờ ngày 29/11/2017 Đàm Văn V đưa cho K 5.000.000 đồng để xuống thị xã T, tỉnh Bắc Ninh mua ma túy. K mua với một người đàn ông không biết tên tuổi địa chỉ được 09 gói ma túy dạng cục với số tiền 4.500.000 đồng rồi đi xe khách về đến đầu cầu B, thuộc xã K, huyện T, lúc đó vào khoảng 01 giờ ngày 01 tháng 12 năm 2017, K gọi điện cho Lô Vũ L ra đầu B đón, L đồng ý và điều khiển xe mô tô BKS 12F9-3762 đi đón. Khi L đến nơi thì K bảo đưa K lên khu vực đồi K thuộc thôn P, xã H. Sau đó K gọi cho V đến rồi K lấy 09 gói ma túy dạng cục ra, bảo L hộ chia và sẽ cho sử dụng. Lúc này V dùng bật lửa tán 07 gói ma túy ra để cho K xúc vào tờ giấy cho L gói lại. Sau khi chia xong được khoảng hơn 145 gói. V cho K lấy số ma túy đã chia thành gói nhỏ để đi bán và số tiền lãi bán được sẽ chia đôi. Còn 02 gói ma túy dạng cục chưa chia V đem về nhà. Qua khám xét khẩn cấp trên người và chỗ ở của V thu giữ được trên người 01 gói nhỏ bên trong có chứa chất bột mầu trắng và thu giữ tại đống thạch trong nhà bếp của V được 01 gói nhỏ bên trong có chứa chất bột mầu trắng dạng cục.

Tại bản Kết luận giám định số 21/KL-PC54, ngày 04/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng có trong 145 gói nhỏ thu giữ tại chỗ ở của Lô Vũ L là chất ma túy Heroine, có tổng trọng lượng 2,195 gam; chất bột màu trắng có trong 02 gói nhỏ thu giữ trên người và khám xét chỗ ở của Đàm Văn V là chất ma túy Heroine, có tổng trọng lượng 0,721 gam.

Qua điều tra Hoàng Minh K khai nhận trước khi bị bắt đã được bán ma túy cho những người nghiện sau:

Khoảng 08 giờ 01/12/2017 Đoàn Văn D có gọi điện thoại cho Lô Vũ L hỏi “K đang ở đâu” thì L nói “K đang ở nhà tao” vì trước đó L cho D biết K có ma túy bán sau đó chuyển điện thoại cho K trực tiếp trao đổi với D, D nói còn không (ý nói còn ma túy không), K trả lời “còn lấy mấy cái”, D nói lấy 03 cái rồi D đi xe đạp đến nhà L mua với K 03 gói ma túy với giá 100.000 đồng/01gói; Khoảng 09 giờ, ngày 01/12/2017, K bán cho Nguyễn Tiến P 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng tại tầng 2 nhà L; Cũng vào thời điểm này Lục Văn T vào nhà L hỏi “K đang ở đâu”, L nói “K trên tầng”, T liền lên trên tầng gặp K mua 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng.

Đàm Văn V khai nhận: Trước đó vào khoảng đầu tháng 10 và cuối tháng 10/2017, V đưa tiền cho K 02 lần mỗi lần đưa cho 3.500.000 đồng để đi mua ma túy về bán lại cho người nghiện cụ thể: V được bán cho Nông Văn T 02 lần: lần 1: Khoảng 18 giờ ngày 12/11/2017 V bán cho T 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng; lần 2: Khoảng 10 giờ ngày 29/11/2017 bán cho T 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng. Khoảng 18 giờ, ngày 05/11/2017 bán cho Nông Thế Q 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng. Khoảng 18 giờ, ngày 12/11/2017 bán cho Nông Văn A 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng những lần bán ma túy trên đều bán tại thôn P, xã H.

Tại bản cáo trạng số 17/CT-VKSTĐ ngày 26/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn, truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn để xét xử đối với các bị cáo Hoàng Minh K và Đàm Văn V về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999, truy tố bị cáo Lô Vũ L về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định tại khoản 1, Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phần tranh luận vị đại diện Viện kiểm sát luận tội cacs bị cáo, Hoàng Minh K và Đàm Văn V về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 20; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015; đề nghị xử phạt Hoàng Minh K từ 08 đến 09 năm tù; Đàm Văn V từ 08 đến 09 năm tù. Lô Vũ L về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định tại khoản 1, Điều 194; Điều 20 của Bộ luật hình sự năm 1999; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015; đề nghị xử phạt từ 03 năm đến 04 năm tù. Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về tang vật đề nghị áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 đề nghị: Tịch thu để tiêu hủy 02 phong bì niêm phong mẫu còn nguyên vẹn; 01 xi lanh, kim tiêm nhựa; tịch thu hóa giá sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu VIVO và 01 điện thoại di động hiệu NOKIA màu đen; tịch thu để sung công quỹ Nhà nước số tiền 1.100.000 đồng.

Các bị cáo không tranh luận, đều thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hồi 09 giờ, ngày 01 tháng 12 năm 2017 tại thôn P, xã Đ, huyện T, Công an huyện Tràng Định tỉnh Lạng Sơn bắt quả tang Đoàn Văn D có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, D khai nhận số ma túy vừa sử dụng là mua với Hoàng Minh K tại nhà ở của Lô Vũ L. Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Tràng Định đã tiến hành khám xét chỗ ở của Lô Vũ L, thu giữ được 145 gói nhỏ chất ma túy Heroine, có tổng trọng lượng 2,195 gam ở trên giường ngủ tại tầng 2 cùng với sự có mặt của Hoàng Minh K đang ở tại đó và tạm giữ của K 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA; 1.100.000 đồng, tạm giữ của L 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO. K khai nhận số ma túy trên là của Đàm Văn V đem cho K bán; cùng ngày khám xét chỗ ở của Đàm Văn V thu giữ được 02 gói nhỏ chất ma túy Heroine, có tổng trọng lượng 0,721 gam. Qua điều tra chứng minh đã đủ cơ sở xác định được Hoàng Minh K đã thực hiện hành vi bán ma túy cho nhiều người nghiện để kiếm lời cụ thể: Bán cho Đoàn Văn D 03 gói với số tiền 100.000 đồng/01 gói; Bán cho Lục Văn T, Nguyễn Tiến P mỗi người 01 gói với số tiền 100.000 đồng/01 gói. Đàm Văn V đã thực hiện hành vi bán ma túy cho nhiều người nghiện để kiếm lời cụ thể: Bán cho Nông Văn T 02 lần, mỗi lần 01gói với số tiền 100.000 đồng; Bán cho Nông Thế Q và Nông Văn A đều mỗi người 01 gói với số tiền 100.000 đồng/01 gói. Lô Vũ L đã giúp K và V chia ma túy ra thành gói nhỏ để bán cho người nghiện và giúp K bán ma túy cho Đoàn Văn D 03 gói với số tiền 100.000 đồng/01 gói, để được K, V cho sử dụng ma túy không mất tiền. Như vậy là đủ cơ sở kết luận các bị cáo Hoàng Minh K, Đàm Văn V mua bán trái phép chất ma túy nhiều lần là đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật Hình sự, đối với Lô Vũ L có được tham gia giúp Hoàng Minh K chia ma túy và bán chất ma túy 01 lần tại nhà cho Đoàn Văn D, còn các lần khác K bán chất ma túy L không biết do đó bị cáo L phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của bộ luật hình sự năm 1999. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, xâm phạm đến quyền quản lý tân dược của Nhà nước, gây dư luận xấu trong nhân dân, reo rắc những tệ nạn xã hội tại địa phương, các bị cáo biết việc mua bán trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng do hám lợi và nghiện chất ma tuý nên cố ý vi phạm pháp luật nhằm kiếm lời và có chất ma túy để sử dụng, do vậy cần phải xử lý các bị cáo về hình sự đồng thời xử phạt các bị cáo một mức án nghiêm khắc để răn đe phòng ngừa chung trong xã hội. Nhận thấy cáo trạng truy tố Hoàng Minh K và Đàm Văn V về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999; Lô Vũ L về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định tại khoản 1, Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999 là đúng người, đúng tội. Theo điểm a khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc Hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, quy định chỉ áp dụng khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018, thấy hành vi phạm tội của các bị cáo thực hiện trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 nên áp dụng Bộ luật Hình sự năm 1999 để xử phạt đối với các bị cáo là đúng quy định pháp luật.

[2] Xét về tình tiết tăng nặng: Tại Bản án số: 39/2015/HSST ngày 31/8/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo Lô Vũ L 09 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công công”, bị cáo chưa được xóa án tích lại phạm tội do cố ý là thuộc trường hợp tái phạm, nên cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 1999 để áp dụng xét xử bị cáo. Xét về tình tiết giảm nhẹ: Thấy tại phiên toà và tại Cơ quan điều tra các bị cáo khai báo thành khẩn, do đó, được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999. Về hình phạt bổ sung: Thấy các bị cáo không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[3] Về vật chứng: 02 phong bì niêm phong mẫu còn nguyên vẹn; 01 xi lanh, kim tiêm nhựa là chấy ma túy và vật sử dụng vào việc mua bán trái phép chất ma túy nên cần tịch thu để tiêu hủy; 01 điện thoại di động hiệu VIVO và 01 điện thoại di động hiệu NOKIA màu đen, đây là vật sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu hóa giá sung công quỹ Nhà nước; số tiền 1.100.000 đồng là tiền phạm tội mà có nên tịch thu để sung công quỹ Nhà nước.

[4] Đối với người đàn ông mà K đã mua ma túy tại thị xã T, tỉnh Bắc Ninh, do K không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra, xác minh làm rõ, xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Tuyên bố bị cáo Hoàng Minh K, Đàm Văn V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Hoàng Minh K 08 (tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam là ngày 01 tháng 12 năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đàm Văn V 08 (tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam là ngày 01 tháng 12 năm 2017.

Căn cứ khoản 1 Điều 194 điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33; Điều 20 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Tuyên bố bị cáo Lô Vũ L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Lô Vũ L 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam là ngày 01 tháng 12 năm 2017.

Việc xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 xử lý như sau: Tịch thu để tiêu hủy gồm: 02 phong bì niêm phong mẫu còn nguyên vẹn và 01 xi lanh, kim tiêm nhựa; tịch thu hóa giá sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu VIVO và 01 điện thoại di động hiệu NOKIA màu đen. (Các vật chứng trên chi tiết miêu tả theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/5/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tràng Định với Chi cục thi hành án dân sự huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn) Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 1.100.000đ (Một triệu một trăm nghìn đồng), số tiền trên hiện đang được tạm gửi tại tài khoản số: 3949.0.1054413.00000 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn theo Giấy ủy nhiệm chi số 07 ngày 03/5/2018 của Kho bạc Nhà nước huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Buộc các bị cáo Hoàng Minh K, Đàm Văn V, Lô Vũ L mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2018/HS-ST ngày 25/05/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:16/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tràng Định - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về