Bản án 16/2018/HS-ST ngày 23/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH MIỆN, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 16/2018/HS-ST NGÀY 23/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 3 năm 2018 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Thanh Miện, mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 06/2018/TLST-HS ngày 08 tháng 02 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2018/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

Trương Mậu L - sinh năm 1988.

Trú tại: Khu A, xã Đ, huyện T, tỉnh H.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12. Bố đẻ: Trương Mậu Q, Mẹ đẻ: Nguyễn Thị H,

Vợ: Mai Thị V, có 01 con sinh năm 2016. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/01/2018 đến ngày 14/01/2018 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Kim Chi, Công an tỉnh Hải Dương, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: khoảng 12 giờ 00’ ngày 11/01//2018 Trương Mậu L đi xe khách từ nhà đến thị trấn Kẻ Sặt, huyện Bình Giang mua Heroin mục đích về sử dụng. L gặp và hỏi mua của người đàn ông không quen biết 01 gói Heroin với giá 150.000đ rồi cất giấu vào trong túi áo khoác phía trước và bắt xe khách về nhà. Khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, L xuống xe đi bộ về đến gần cổng nhà văn hoá khu A, xã Đ thì bị Lực lượng Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Miện bắt quả tang, thu giữ 01 gói Heroin.

Tại kết luận giám định số 134/PC54 ngày 13-01-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương kết luận 01 gói chất dạng cục màu trắng, ghi thu của Tr M L gửi giám định có trọng lượng 0,187 gam, là Heroin, chất ma tuý nằm trong danh mục I, STT: 20, Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19-7-2013 của Chính Phủ. Hòan lại mẫu vật sau giám định là 0,121 gam Heroin.

Tại Bản cáo trạng số 07/VKS-HS ngày 06-02-2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương truy tố Trương Mậu L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện thực hành quyền công tố, trình bày luận tội giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị HĐXX: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 điều 51, điều 38 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tuyên bố Trương Mậu L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Xử phạt bị cáo từ 14 tháng tù đến 16 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 11/01/2018.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng:Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS năm 2015: tịch thu cho tiêu huỷ số ma tuý hoàn lại sau giám định.

Về án phí: Áp dụng điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí ngày 25-11-2016; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo L thừa nhận hành vi phạm tội và đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan Điều tra, biên bản phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng, vật chứng thu được và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở xác định: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 11-01-2018, tại khu vực cổng nhà văn hoá khu A, xã Đ, huyện T, Trương Mậu L có hành vi cất giấu trái phép 01 gói Heroin trọng lượng 0,187 gam thì bị Lực lượng Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Miện bắt quả tang, thu giữ 01 gói Heroin.

[2]. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý là cất giữ bất hợp pháp chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán hay sản xuất trái phép chất ma tuý khác. Hành vi của bị cáo xâm phạm khách thể được Luật hình sự bảo vệ đó là chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm đến sức khoẻ và sự phát triển giống nòi của dân tộc; bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức hành vi cất giấu trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm s khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, quyết định truy tố của VKSND huyện Thanh Miện đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2]. Xét tính chất hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tiền án tiền sự, quá trình khai báo thành khẩn, tỏ sự ăn năn hối lỗi được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Tuy vậy bị cáo có nhân thân không tốt, ngày 13-12-2015 bị Công an huyện Thanh Miện xử phạt vi phạm hành chính hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý, ngày 19-10-2016 bị Công an huyện Gia Lộc xử phạt vi phạm hành chính hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý, tuy đã chấp hành xong nhưng bị cáo không lấy làm bài học cải sửa bản thân, tích cực rèn luyện mà vẫn tiếp tục phạm tội.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ ảnh hưởng chính sức khoẻ, kinh tế của bị cáo và gia đình mà còn có nguy cơ làm phát sinh các loại tội phạm khác, gây tâm lý lo lắng đối với nhân dân địa phương, bị cáo đã được giáo dục bằng hai Quyết định xử phạt vi phạm hành chính có cùng tính chất với hành vi phạm tội nhưng không lấy làm bài học vì vậy cần cách ly bị cáo một thời gian để giáo dục bị cáo và phục vụ công tác phòng ngừa chung.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, là đối tượng nghiện ma tuý nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4]. Về vật chứng: Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương hoàn lại mẫu vật sau giám định đựng trong phong bì thư được niêm phong số 134/KLGĐ-PC54, tang vật vụ án gửi giám định ngày 12-01-2018. Đây là chất ma tuý bị cáo tàng trữ trái phép nên tịch thu cho tiêu huỷ.

Về nguồn gốc số ma tuý theo bị cáo khai mua của người đàn ông không quen biết, không rõ tên, địa chỉ tại thị trấn Kẻ Sặt, huyện Bình Giang, cơ quan điều tra không xác định được nên không có căn cứ xem xét xử lý.

[5]. Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 điều 51, điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

1. Tuyên bố: Trương Mậu L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Trương Mậu L 14 (Mười bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 11-01-2018.

2. Về vật chứng: áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS năm 2015, tịch thu cho tiêu huỷ số ma tuý hoàn lại sau giám định để trong phong bì thư được niêm phong số 134/KLGĐ-PC54, tang vật vụ án gửi giám định ngày 12-01-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/02/2018 giữa Công an huyện Thanh Miện và Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Miện).

3. Về án phí: áp dụng Điều 136 BLTTHS năm 2015; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25-11-2016; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Trương Mậu L phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ điều 331, Điều 333 BLTTHS năm 2015, Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2018/HS-ST ngày 23/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:16/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Miện - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về