Bản án 16/2018/HS-ST ngày 22/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LƯƠNG SƠN, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 16/2018/HS-ST NGÀY 22/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 5 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 13/2018/TLST-HS ngày 10 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2018/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:

Bùi Thị Như Q, Sinh ngày 12 tháng 11 năm 1994 tại L, Hòa Bình; Nơi cư trú: Xóm B, xã E, huyện L, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 9/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông: (không) , con bà Bùi Thị N, sinh năm 1965. Chồng, con: Chưa có. Gia đình có 2 chị em, bị cáo là con lớn trong gia đình, nhỏ sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ 12 giờ 00 ngày 09/01/2018 đến 12 giờ 00 ngày 18/01/2018. Hịện bị cáo tại ngoại và đang chấp hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 11 ngày 16/8/2018. Có mặt.

Người chứng kiến:

- Lại Tuyết M. Sinh năm 1966

Trú tại: Thôn T, xã H, huyện L, Hòa Bình . Vắng mặt

- Vũ Xuân Y. Sinh năm 1969

Trú tại: Thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Hòa Bình . Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 08/01/2018, Bùi Thị Như Q, sinh năm 1994 đi xe taxi từ nhà ở thôn B, xã E, huyện L, tỉnh Hòa Bình xuống khu vực ngã ba dốc Sống thuộc xã Tân Thành, huyện Lương Sơn, Hòa Bình với mục đích đi hát karaoke. Khi đi đến ngã ba dốc Sống thì Q gặp một người bạn trai mới quen không biết tên tuổi, địa chỉ, người bạn đó hỏi Q có biết chỗ nào bán ma tuý đá không. Do Q có quen biết qua bạn bè nên biết ở Đồng Tâm, Mỹ Đức, Hà Nội có bán ma túy đá, Quỳnh nhận lời mua và hỏi người bạn trai mua bao nhiêu tiền, người bạn trai đó nói với Q là mua 1.000.000đồng. Q đi taxi một mình ra Đồng Tâm, Mỹ Đức, Hà Nội với mục đích tìm mua ma túy. Khi đi đến khu vực gần nhà nghỉ 2 ngõ thuộc Đồng Tâm, Mỹ Đức thì Q nhìn thấy một người đàn ông khoảng 26 tuổi, đầu đội mũ lưỡi trai màu tối, có dáng người đậm, cao khoảng 1,66m, mặc quần dài, áo khoác tối màu không biết tên tuổi, địa chỉ đang đứng cạnh đường. Q hỏi người đàn ông đó có biết chỗ bán ma túy đá không? Người đàn ông hỏi Q mua bao nhiêu tiền, Q nói mua 1 triệu đồng. Người đàn ông đó đồng ý bán và bảo Q đứng đợi. Khoảng 5 phút, người đàn ông đó quay lại, bảo Q đưa tiền và chỉ cho Q đi lên phía trước khoảng 10 mét thì nhìn bên cạnh đường có bao thuốc lá ba số bên trong có ma túy đá. Q đưa 1 triệu đồng cho người đàn ông đó và ra nhận ma túy. Q lên xe taxi về dốc Sống, xã Tân Thành, huyện Lương Sơn gặp bạn. Khi gặp bạn, cả hai người thống nhất lên khu vực thị trấn Xuân Mai vào nhà nghỉ BN thuộc xã Hòa Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình để sử dụng ma túy.Tại nhà nghỉ, Q bị công an huyện Lương Sơn kiểm tra phát hiện bắt quả tang bên trong áo ngực trái của Q cất giấu 01 gói nilon bên trong có các cục ma túy đá. Ngoài ra còn thu giữ của bị cáo Q 01 điện thoại di động hiệu Microsoft, loại màn hình cảm ứng, mặt trước màu đen, mặt sau màu trắng, máy đã qua sử dụng.

Tại bản kết luận giám định số 43/KLGĐ-CAT-PC54 ngày 16/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: Mẫu chất dạng tinh thể màu trắng trong phong bì niêm phong gửi giám định thu giữ khi bắt quả tang Bùi Thị Như Q tàng trữ có khối lượng 0,51gam là ma túy, loại Methamphetamine.

Cáo trạng số 14/CT-VKSLS ngày 09/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Sơn truy tố bị cáo Bùi Thị Như Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 ( Bộ luật hình sự 2015)

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trong nội dung bản cáo trạng, khẳng định lời khai trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa đều tự nguyện, không bị ép cung, mớm cung hoặc bị nhục hình.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Sơn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản cáo trạng. Căn cứ tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bùi Thị Như Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51; điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Quỳnh từ 15 đến 18 tháng tù, được trừ 09 ngày tạm giữ.

Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự 2015, điểm a khoản 2 điều 106 bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy số ma túy của Bùi Thị Như Q, tịch thu, phát mại sung công quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Microsoft, loại màn hình cảm ứng, mặt trước màu đen, mặt sau màu trắng, máy đã qua sử dụng.

Bị cáo không có lời tự bào chữa.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo thấy hành vi của mình là sai, vi phạm pháp luật, bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về với gia đình và phấn đấu trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lương Sơn, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Sơn, Kiểm sát viên  trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội, không có tội: Lời khai nhận tội của bị cáo Bùi Thị Như Q tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trước cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Các tài liệu chứng cứ đó là: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng, kết luận giám định phù hợp với lời khai của những người được mời chứng kiến khi bị cáo Q bị bắt quả tang, cùng các tài liệu có trong hồ sơ, đủ căn cứ kết luận: Khoảng 23 giờ ngày 08/01/2018, Bùi Thị Như Q, sinh năm 1994, trú tại thôn B, xã E, huyện L, tỉnh Hòa Bình đã mua 1.000.000đồng ma túy đá của người đàn ông không quen biết tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội, mục đích mua về cho người bạn mới quen và bản thân bị cáo sử dụng. Khi đang ở nhà nghỉ BN thuộc thôn Tân Sơn, xã Hòa Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình thì bị cơ quan Công an huyện Lương Sơn bắt quả tang cùng tang vật là 0,51gam ma túy, loại Methamphetamine bị cáo Q cất giấu trong áo ngực bên trái. Hành vi của bị cáo Q đã cấu thành tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Sơn truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, là tội nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước đối với các chất ma túy, trong đó Methamphetamin là chất cấm được quy định trong danh mục II, số thứ tự 67, Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ. Hành vi của bị cáo đã thể hiện sự coi thường pháp luật, gây mất trật tự trị an xã hội và sự bất bình trong dư luận nhân dân tại địa phương. Mặt khác các hành vi sử dụng, tàng trữ, mua bán trái phép các chất ma túy còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác, gây ra nhiều hệ lụy làm ảnh hưởng đến đời sống xã hội. Bị cáo là người có sự hiểu biết pháp luật và có năng lực trách nhiệm hình sự, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của mình.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung và tội phạm về ma túy nói riêng . Tuy nhiên cũng nhận thấy rằng bị cáo có nhân thân tốt, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đều tỏ ra thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình là phù hợp với các quy định của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có công việc ổn định, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo và người đàn ông nhờ bị cáo mua ma túy, cơ quan điều tra Công an huyện Lương Sơn đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được tên tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý theo quy định của pháp luật.

[5] Về xử lý vật chứng:  Đối với số ma túy là Methamphetamine do cơ quan giám định hoàn lại là 0,21gam được niêm phong trong 01 phong bì, là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu, tiêu hủy. Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Microsoft, loại màn hình cảm ứng, mặt trước màu đen, mặt sau màu trắng, máy đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong mà cơ quan điều tra đã thu giữ là tài sản hợp pháp của bị cáo. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai đã dùng chiếc điện thoại nói trên gọi điện cho bạn để tìm hiểu thông tin về địa điểm mua ma túy nhưng không liên lạc được. Do qua bạn bè, bị cáo cũng có biết thông tin ở Đồng Tâm có bán ma túy nên vẫn thuê xe taxi đi Đồng Tâm để tìm mua ma túy, tuy nhiên việc bị cáo hỏi và mua được ma túy thông qua một một người đàn ông không quen biết hoàn toàn do ngẫu nhiên, không có sự liên lạc, trao đổi trước bằng điện thoại. Như vậy có căn cứ xác định chiếc điện thoại cơ quan điều tra đã thu giữ không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, không phải là vật chứng của vụ án, xét thấy cần trả lại cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Bùi Thị Như Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Bùi Thị Như Q 18 (mười tám) tháng tù, được trừ 09 (chín) ngày tạm giữ, còn phải chấp hành 17 (mười bảy ) tháng 21 (hai mươi mốt) ngày, thời hạn tính từ ngày bắt thi hành án.

Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa 0,21gam Methamphetamine do cơ quan giám định hoàn lại (Số lượng, chủng loại, đặc điểm, tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/4/2018 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lương Sơn và Chi cục thi hành án dân sự huyện Lương Sơn).

Trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Microsoft, loại màn hình cảm ứng, mặt trước màu đen, mặt sau màu trắng, máy đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/4/2018 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lương Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lương Sơn.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về thu nộp án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Bùi Thị Như Q phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Bùi Thị Như Q có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

294
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2018/HS-ST ngày 22/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:16/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lương Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về