Bản án 16/2018/HSST ngày 17/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 16/2018/HSST NGÀY 17/01/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 01 năm 2018, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 475/2017/HSST ngày 27 tháng 12 năm 2017, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2018/QĐXXST-HS ngày 03/01/2018 đối với  bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Mạnh T, tên gọi khác: không; sinh ngày 14 tháng 8 năm 1986; Nơi ĐKNKTT: Tổ 10, phường P, thành phố B, tỉnh bắc Kạn. Chỗ ở: Tổ 1B, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: không; Con ông: Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1958; Con bà: Phạm Thị Th, sinh năm 1959; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Có vợ là Trần Thị Tr, sinh năm 1995; Con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/12/2017 đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Thái Nguyên,tỉnh Thái Nguyên. ( Có mặt tại phiên toà)

Người làm chứng: Anh Nguyễn Đức M, sinh năm: 1960, trú tại: Tổ 17, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên. ( Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 30 phút ngày 03/12/2017, tổ công tác của Công an phường Quang Trung, thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát tại khu vực chợ Đồng Quang thuộc tổ 23, phường Quang Trung, thành phố Thái Nguyên phát hiện 01 nam thanh niên (sau xác định là Nguyễn Mạnh T) điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave, BKS: 97F3 - 2213 có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiếp cận, kiểm tra, T tự giác giao nộp 01 gói giấy màu trắng đang cầm trên tay trái, bên trong chứa chất bột màu trắng (T khai là Hêrôin của T). Ngoài ra, tổ công tác còn thu giữ của T 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave, BKS: 97F3 – 2213. Tổ công tác đã lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T và thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong và cân xác định trọng lượng số chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Mạnh T là: 0,135 gam.

Tại bản Kết luận giám định số 97 ngày 08/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Số chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Mạnh T là chất ma túy, loại Hêrôin, trọng lượng là: 0,135 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Mạnh T khai nhận: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 03/12/2017, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave, BKS: 97F3 – 2213 đi đến khu vực chợ Đồng Quang thuộc tổ 23, phường Quang Trung, thành phố Thái Nguyên để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây, T gặp và mua của 01 nam thanh niên không quen biết 100.000 đồng được 01 gói

Hêrôin được gói bằng giấy màu trắng. Sau đó, T cầm gói Hêrôin vừa mua được trên tay trái và đang chuẩn bị điều khiển xe mô tô đi tìm nơi sử dụng ma túy thì bị tổ công tác của Công an phường Quang Trung phát hiện, bắt quả tang như đã nêu trên.

Lời khai trên của Nguyễn Mạnh T phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng của vụ án là:

- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave, BKS: 97F3 – 2213. Hiện đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Trần Thị Tr, sinh năm 1995, HKTT: Thôn C, thị trấn N, huyện Ng, tỉnh Bắc Kạn quản lý, sử dụng.

- 01 bì niêm phong ký hiệu T1. Hiện được chuyển đến bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 10/KSĐT-MT ngày 26/12/2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả.

Phần tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ quyền công tố luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố, sau khi đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh T phạm tội “Tàng trữ  trái phép chất ma túy”;

Áp dụng khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình năm 2015; điểm h, i khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 Xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Mạnh T: Từ 18 đến 24 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo;

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS: Tịch thu, tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu T1.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23, Nghị quyết số 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST vào ngân sách nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận, thừa nhận việc truy tố xét xử là không oan, đúng người, đúng tội.Lời nói cuối cùng của bị cáo hứa sửa chữa và xin được hưởng mức án nhẹ nhất, để sớm trở về là người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Thư ký tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]  Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Mạnh T thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện.Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà là khách quan phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, với vật chứng đã thu được, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ xác định: Hồi 17 giờ 30 phút ngày 03/12/2017, tại khu vực tổ 23, phường Quang Trung, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, Nguyễn Mạnh T đang có hành vi tàng trữ 0,135 gam Hêrôin để bản thân sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi, ý thức của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 194  Bộ luật hình sự năm 1999, nay là khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Khoản 1 Điều 249 BLHS quy định như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.

Căn cứ điểm h, i khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH 13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH 14, Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt, điều luật theo quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 theo nguyên tắc có lợi cho bị cáo.

[3]  Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh T về tội danh và điều luật viện dẫn là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS bị cáo được hưởng: Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc dược của Nhà nước gây mất trật tự trị an xã hội.Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với sức khỏe, kinh tế xã hội, nhưng do bản thân nghiện ma túy nên đã dẫn đến phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xét xử bằng pháp luật hình sự và có một mức án phù hợp, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để giáo dục bị cáo, đồng thời răn đe phòng chống tội phạm chung.

Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, là đối tượng nghiện ma túy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ Luật hình sự.

Mức hình phạt mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị trong phần luận tội là phù hợp.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, bản thân là người nghiện ma túy, biên bản xác minh và lời khai của bị cáo tại phiên tòa xác định bị cáo không có tài sản, thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Cần áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu T1

[7]. Án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8].Các vấn đề khác: Trong vụ án này Nguyễn Mạnh T khai mua ma túy (Hêrôin) của một 01 nam thanh niên không quen biết. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch địa chỉ của người này, nên cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở để điều tra làm rõ, xử lý.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm h, i khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14;

- Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự;

1/ Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Mạnh T  phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Xử phạt Nguyễn Mạnh T 18 ( Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 03/12/2017.

- Quyết định tạm giam bị cáo Nguyễn Mạnh T 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2/ Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3/ Về vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu T1

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 76 ngày 25/12/2017 giữa Công an thành phố Thái Nguyên với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên).

3.Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Mạnh T phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước

Án xử công khai sơ thẩm,có mặt bị cáo, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2018/HSST ngày 17/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:16/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về