Bản án 16/2018/HNGĐ-ST ngày 24/04/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN THỤY, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 16/2018/HNGĐ-ST NGÀY 24/04/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 24 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện K xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 30/2018/TLST-HNGĐ, ngày 06 tháng 3 năm 2018 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 4 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đặng Thị T, sinh năm 1983; địa chỉ cư trú: C, trị trấn N, huyện K, thành phố Hải Phòng: Có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Anh Phan Văn T1, sinh năm 1981; hộ khẩu thường trú: C, trị trấn N, huyện K, thành phố Hải Phòng; hiện đang chấp hành án tại: Đội 30, phân trại 1, trại giam X, xã L, huyện N, thành phố Hải Phòng: Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 22/02/2018 và bản tự khai ngày 12/3/2018 chị Thu trình bày: Chị tự nguyện chung sống với anh Phan Văn T1 từ năm 2000, nhưng đến ngày 19/6/2007 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện K. Nói chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 13 năm. Tuy nhiên trong quá trình sống chung mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ tháng 10 năm 2013 do phong cách sống không còn phù hợp, nghi ngờ nhau sống không chung thủy, không thống nhất quan điểm trong làm ăn kinh tế. Vợ chồng thường xuyên xảy ra đánh cãi nhau. Mặc dù chị và gia đình đã nhiều lần khuyên giải để vợ chồng trở lại sống đoàn tụ nhưng không thành. Đến tháng 10/2015 do ghen tuông vô cớ anh T1 đã phạm tội giết người bị Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 20 năm tù và hiện đang chấp hành án tại: Đội 30, phân trại 1, trại giam X, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng. Chị đã nhiều lần đến trại giam thăm nom, động viên anh Thắng. Thực tế vợ chồng sống ly thân từ cuối năm 2013 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung.

Do tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài; chị xin ly hôn anh T1.

Về con chung: Có 04 con là Phan Thị Hà D, sinh ngày 19/9/2001;  Phan Thị Phương T2, sinh ngày 08/4/2005; Phan Văn Duy T3, sinh ngày 04/9/2006; Phan Sinh P, sinh ngày 08/10/2013 hiện đang do chị T nuôi dưỡng. Chị xin tiếp tục nuôi dưỡng cả 04 con đến khi đủ 18 tuổi; trên cơ sở nguyện vọng của các cháu D, cháu T2 và cháu T3. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị T không yêu cầu anh T1 phải cấp dưỡng vì anh T1 đang phải chấp hành án ở trong trại giam nên không có điều kiện để cấp dưỡng nuôi  con, hiện nay chị T đang làm chủ cơ sở Karaoke G ở C, thị trấn N, mỗi tháng thu nhập kinh tế ổn định 10 triệu đồng và có nơi ăn ở ổn định, đủ điều kiện để nuôi con chung.

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh T1 trình bày tại biên bản lấy lời khai ngày 20/3/2018: Thống nhất với chị T về thời gian kết hôn, thời gian vợ chồng chung sống hạnh phúc. Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ tháng 10 năm 2013 do phong cách sống không còn phù hợp, chị T sống không chung thủy, vợ chồng không thống nhất quan điểm trong làm ăn kinh tế nên thường xảy ra đánh cãi nhau. Do nghi ngờ chị T sống không chung thủy, nên tháng 10/2015 anh T đã phạm tội giết người, bị Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 20 năm tù và hiện đang chấp hành án tại: Đội 30, phân trại 1, trại giam X, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng. Chị T nhiều lần đến thăm nom động viên. Thực tế vợ chồng đã sống ly thân từ cuối năm 2013 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Do tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài. Anh xin ly hôn chị T.

Về con chung: Có 04 con là Phan Thị Hà D, sinh ngày 19/9/2001;  Phan Thị Phương T2, sinh ngày 08/4/2005; Phan Văn Duy T3, sinh ngày 04/9/2006; Phan Sinh P, sinh ngày 08/10/2013 hiện đang do chị T nuôi dưỡng. Anh đồng ý để chị T xin tiếp tục nuôi dưỡng cả 04 con đến khi đủ 18 tuổi; trên cơ sở nguyện vọng của các cháu D, cháu T2 và cháu T3. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, do anh T1 đang phải chấp hành án ở trong trại giam nên không có điều kiện để cấp dưỡng nuôi con, đề nghị Tòa án xem xét.

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Nguyên đơn, bị đơn chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét công khai và kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét thấy:

1. Về tố tụng: Anh T1 là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, nhưng có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

2. Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh T1 tự nguyện chung sống từ năm 2000, nhưng đến ngày 19/6/2007 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, K. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 10 năm 2013 phát sinh mâu thuẫn do phong cách sống không còn phù hợp, nghi ngờ nhau sống không chung thủy, vợ chồng không thống nhất quan điểm trong làm ăn kinh tế. Mặc dù gia đình, thôn xóm đã nhiều lần khuyên giải để vợ chồng sống đoàn tụ nhưng không thành. Vợ chồng thường xuyên xảy ra đánh cãi nhau. Do nghi ngờ chị T sống không chung thủy, nên tháng 10/2015 anh Thắng phạm tội “Giết người” bị Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 20 năm tù và hiện đang chấp hành án tại: Đội 30, phân trại 1, trại giam X, huyện T, thành phố Hải Phòng. Thực tế vợ chồng đã sống ly thân từ cuối năm 2013 đến nay. Do tình cảm không còn, mâu thuẫn rất trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài. Nay chị T và anh T1 đều xin ly hôn là có cơ sở chấp nhận, nên xử cho chị T và anh T1 được ly hôn là phù hợp.

Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử: Xử cho chị Đặng Thị T được ly hôn anh Phan Văn T1.

3. Về con chung: Anh chị có 04 con là Phan Thị Hà D, sinh ngày 19/9/2001; Phan Thị Phương T2, sinh ngày 08/4/2005; Phan Văn Duy T3, sinh ngày 04/9/2006; Phan Sinh P, sinh ngày 08/10/2013 hiện đang do chị T nuôi dưỡng.; Chị T và anh T1 đều thống nhất giao cả 04 con cho chị T nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi được chấp nhận.

Căn cứ vào Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử: Giao cháu Phan Thị Hà D, sinh ngày 19/9/2001; Phan Thị Phương T2, sinh ngày 08/4/2005; Phan Văn Duy T3, sinh ngày 04/9/2006; Phan Sinh P, sinh ngày 08/10/2013 cho chị T nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật là phù hợp. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết; nên không xem xét giải quyết.

4. Về tài sản, công nợ: Đều không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị T phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh T1 là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị T tự nguyện chung sống với anh T1 từ năm 2000, nhưng đến ngày 19/6/2007 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H. Đánh giá chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 13 năm. Song trong thời gian sống chung mâu thuẫn phát sinh từ tháng 10 năm 2013 do phong cách sống không còn phù hợp, nghi ngờ nhau sống không chung thủy, vợ chồng không thống nhất quan điểm trong làm ăn kinh tế nên thường xuyên xảy ra đánh cãi nhau. Mặc dù đã được gia đình, thôn xóm hòa giải nhiều lần để vợ chồng sống đoàn tụ nhưng không thành. Do nghi ngờ chị T sống không chung thủy, nên tháng 10/2015 anh Thắng đã phạm tội “Giết người” bị Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 20 năm tù, hiện đang chấp hành án tại: Đội 30, phân trại 1, trại giam X, huyện T, thành phố Hải Phòng. Thực tế vợ chồng đã sống ly thân từ cuối năm 2013 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay anh chị đều xin ly hôn được chấp nhận, nên xử cho chị T được ly hôn anh Thắng là phù hợp.

[3] Về con chung: Anh chị có 04 con là Phan Thị Hà D, sinh ngày 19/9/2001; Phan Thị Phương T2, sinh ngày 08/4/2005; Phan Văn Duy T3, sinh ngày 04/9/2006; Phan Sinh P, sinh ngày 08/10/2013 hiện cả 04 con đang do chị T nuôi dưỡng. Chị T và anh T đều thống nhất giao cả 04 con cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi và các cháu D, T2, T3 đều có nguyện vọng ở với chị T được chấp nhận. Cần giao các cháu D, T2, T3, P cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi là phù hợp. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con; chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết; nên không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản, công nợ: Đều không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị T được ly hôn anh Phan Văn T.

2. Về con chung: Giao cháu Phan Thị Hà D, sinh ngày 19/9/2001; Phan Thị Phương T2, sinh ngày 08/4/2005; Phan Văn Duy T3, sinh ngày 04/9/2006; Phan Sinh P, sinh ngày 08/10/2013 cho chị T nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, anh T1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đ theo biên lai số: AA.0006134 ngày 06 tháng 3 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K. Chị T đã chịu đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Chị T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh T1 có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2018/HNGĐ-ST ngày 24/04/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:16/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Thuỵ - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về