Bản án 16/2018/HNGĐ-ST ngày 13/06/2018 về hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ NINH - TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 16/2018/HNGĐ-ST NGÀY 13/06/2018 VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 13 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 19/2018/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 02 năm 2018 về việc “Hôn nhân và gia đình ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2018/QĐST ngày 14 tháng 5 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 16/2018/QĐST ngày 29/5/2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N - Sinh năm 1993.

Địa chỉ: Khu 4, xã T, huyện P, tỉnh Phú Thọ.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Quốc Đ - Sinh năm 1986.

Địa chỉ: Khu 3, xã T, huyện P, tỉnh Phú Thọ.

(Chị Ngọc có mặt, anh Đức vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn, tại bản tự khai và lời khai tiếp theo tại Tòa án, chị Nguyễn Thị N trình bày: Chị và anh Nguyễn Quốc Đ đăng ký kết hôn ngày 22/3/2016 tại UBND xã T, huyện P, tỉnh Phú Thọ. Trước khi kết hôn hai bên được tự nguyện tìm hiểu, không bị ép buộc. Quá trình chung sống tình cảm vợ chồng ban đầu hòa thuận hạnh phúc, đến tháng 6/2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi chửi nhau. Từ tháng 6/2017 chị đã về sống tại nhà bố mẹ đẻ tại khu 4, xã T, huyện P, tỉnh Phú Thọ, vợ chồng cũng đã sống ly thân nhau từ đó cho đến nay. Nay xét tình cảm vợ chồng thực sự không còn, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đ.

Phía bị đơn là anh Nguyễn Quốc Đ trình bày: Về thời gian, điều kiện kết hôn và quá trình vợ chồng chung sống, như chị Ngọc trình bày là đúng. Quá trình chung sống tình cảm vợ chồng hòa thuận hạnh phúc, không có mâu thuẫn. Từ tháng 6/2017 chị N đã về sống tại nhà bố mẹ đẻ tại khu 4, xã Trạm Thản, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ, vợ chồng cũng đã sống ly thân nhau kể từ đó cho đến nay. Nay chị N làm đơn xin ly hôn anh thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn nên không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Hai bên xác nhận có một con chung là Nguyễn Quỳnh D - sinh ngày 09/01/2017, hiện cháu D đang ở cùng chị N. Khi ly hôn cả chị N và anh Đ đều xin được nuôi con và không yêu cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp gia đình: Hai bên đều xác nhận không có nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Phía bị đơn là anh Nguyễn Quốc Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn là anh Nguyễn Quốc Đ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Ninh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến nhận xét Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ theo đúng pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; người tham gia tố tụng dân sự đã chấp hành đúng quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Xử cho chị N được ly hôn anh Đ; giao cho chị N được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Quỳnh D - sinh ngày 09/01/2017, anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị N do chị N không yêu cầu; về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp gia đình do hai bên đều xác nhận không có nên không xem xét giải quyết.

Sau khi thẩm vấn công khai tại phiên toà và nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; căn cứ ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án tại phiên toà.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

{1} Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Quốc Đ là hôn nhân hợp pháp, hai bên kết hôn trên cơ sở tìm hiểu và tự nguyện. Theo chị N vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi chửi nhau. Phía anh Đ cho rằng quá trình chung sống tình cảm vợ chồng hòa thuận hạnh phúc, không có mâu thuẫn gì. Cả chị N và anh Đ đều thừa nhận vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 6/2017 cho đến nay. Tuy nhiên anh Đ xét thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn nên không đồng ý ly hôn. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần tiến hành hòa giải giữa hai bên nhưng phía chị N vẫn kiên quyết xin được ly hôn. Qua xác minh tại địa phương, thấy rằng chị N và anh Đ trong cuộc sống vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng hiện đã sống ly thân. Xét thấy cuộc hôn nhân giữa chị N và anh Đ mâu thuẫn rất trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được do vậy cần xử cho chị N được ly hôn anh Đ là phù hợp với quy định tại khoản 1 điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

{2} Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Nguyễn Quỳnh D - sinh ngày 09/01/2017, hiện cháu D đang ở cùng chị N. Khi ly hôn cả chị N và anh Đ đều xin được nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét thấy, nguyện vọng xin được nuôi con của cả hai đều chính đáng tuy nhiên hiện cháu D mới được 17 tháng tuổi nên cần có sự chăm sóc của người mẹ và cũng phù hợp với quy định tại khoản 3 điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình; đồng thời chị N cũng có đủ các điều kiện để chăm sóc nuôi dưỡng con chung. Do đó, cần giao cháu D cho chị N được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con chung do chị N không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

{3} Về tài sản chung, nợ chung và công sức đóng góp gia đình: Hai bên đều xác định không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

{4} Về án phí: Cần buộc đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 điều 28, khoản 1 điều 35, điều 228 và điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

1. Xử: Cho chị Nguyễn Thị N được ly hôn anh Nguyễn Quốc Đ.

2. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Quỳnh D - sinh ngày 09/01/2017 cho chị Nguyễn Thị N được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Quốc Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị N, do chị N không yêu cầu.

Không ai được ngăn cản quyền thăm nom con chung.

3. Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp gia đình: Hai bên đều xác định không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Áp dụng điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và các điều 11, 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chị Nguyễn Thị N phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm (Xác nhận đã nộp tại biên lai thu tiền số 0000749 ngày 07/02/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phù Ninh).

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết để đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử theo trình tự phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

363
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2018/HNGĐ-ST ngày 13/06/2018 về hôn nhân và gia đình

Số hiệu:16/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Ninh - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về