Bản án 16/2018/HNGĐ-ST ngày 04/07/2018 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ M’GAR, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 16/2018/HNGĐ-ST NGÀY 04/07/2018 XIN LY HÔN

Ngày 04 tháng 7 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện CưM’gar, tỉnh ĐăkLăk, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 43/2018/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 02 năm 2018 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 14/6/2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị H – Sinh năm 1990 – Có mặt

Địa chỉ: Thôn T, xã E, huyện K, tỉnh ĐắkLắk.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T – Sinh năm 1989 – Có mặt

Địa chỉ: Đội X, thôn Đ, xã C, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn: Trong đơn khởi kiện, bản tự khai, quá trình hòa giải và tại phiên tòa chị Hoàng Thị H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Văn T đăng ký kết hôn ngày 07/10/2013 tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện C trên cơ sở tự nguyện. Trong quá trình chung sống thì giữa hai vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, anh chị thường xuyên xảy ra cãi vã, bất hòa, lý do chủ yếu là anh T không chịu khó làm ăn chăm lo cho con cái. Nay chị H cảm thấy tình cảm vợ chồng với anh T là không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, anh chị đã ly thân từ tháng 11 năm 2017. Nay chị H đề nghị được ly hôn với anh T.

- Về con chung: Có 01 con chung là cháu Nguyễn Hoàng Nhật A, sinh ngày 28/7/2014. Hiện nay con chung khỏe mạnh phát triển bình thường và đang ở với anh T và ông bà nội. Sau khi ly hôn chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Hoàng Nhật A cho đến khi cháu đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị H yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung đối với cháu A với số tiền là 1.000.000đ/tháng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi.

Hiện nay chị H làm công nhân may, thu nhập bình quân hàng tháng khoảng 8.000.000đ.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn: Trong bản tự khai, quá trình hòa giải và tại phiên tòa anh Nguyễn Văn T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân, con chung và tài sản chung anh T đồng ý với lời trình bày của chị H và không bổ sung gì thêm.

Chị H yêu cầu ly hôn thì anh T có nguyện vọng muốn đoàn tụ vợ chồng để làm ăn nuôi dạy con cái. Tuy nhiên Tòa án đã hòa giải nhiều lần nhưng chị H vẫn cương quyết ly hôn thì anh T đồng ý ly hôn.

- Về con chung: Trong thời gian chung sống anh chị có với nhau 01 con chung là cháu Nguyễn Hoàng Nhật A, sinh ngày 28/7/2014; nếu ly hôn anh T cũng có nguyện vọng được nuôi con, bởi vì theo anh T hiện tại chị H đang đi làm công nhân may tại thành phố Hồ Chí Minh, cho nên thời gian, chỗ ăn ở và mức thu nhập không đảm bảo để nuôi con. Hiện tại cháu Nhật A đang sống cùng anh và ông bà nội mấy năm nay. Vì vậy anh có điều kiện để nuôi dạy cháu.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Hiện nay anh T làm rẫy cà phê của gia đình và làm một số công việc khác, thu nhập đủ để đảm bảo cho cuộc sống và ăn học của cháu Nhật A. Vì vậy anh không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Hoàng Thị H giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và không bổ sung gì thêm.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về thủ tục tố tụng và nội dung vụ án:

Về thủ tục tố tụng:

- Đối với Thẩm phán: Đã thực hiện đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đối với HĐXX: Đã thực hiện đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự

- Đối với đương sự: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quy định tại Điều 70; Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn thực hiện đúng quy định tại Điều 70; Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn hợp pháp theo quy định của pháp luật. Quá trình chung sống anh chị nảy sinh nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn hay khắc phục, nên cả anh T và chị H đồng ý ly hôn. Vì vậy cần công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh T và chị H là phù hợp với quy định tại Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình.

- Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Hoàng Nhật A, sinh ngày 28/7/2014 cho anh Nguyễn Văn T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng nuôi con chung anh T không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra xem xét giải quyết .

- Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và nuôi con chung thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện, được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Căn cứ vào lời trình bày của các đương sự và các tài liệu đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định: Chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Văn T tự nguyện đăng ký kết hôn vào ngày 07/10/2013 tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện C theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Quá trình duy trì cuộc sống hôn nhân; theo chị H thì thời gian đầu cuộc sống của anh chị cũng hạnh phúc, nhưng càng về sau cuộc sống của anh chị nảy sinh nhiều mâu thuẫn, ngày càng gay gắt, trầm trọng không thể hàn gắn được nên anh chị đã sống ly thân nhau từ năm cuối năm 2017 cho đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do tính tình không hợp, thường hay bất đồng về quan điểm lối sống nên dẫn đến thường hay cãi vã nhau; anh T là người lười biếng lao động, ham chơi, không biết nuôi dạy con cái. Nay chị H cảm thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã rất trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể duy trì nên chị đề nghị được ly hôn với anh T. Về phía anh T xác định, giữa anh chị trong cuộc sống cũng có nhiều mâu thuẫn, xong anh vẫn còn tình cảm thương yêu chị và mong được đoàn tụ để cùng nhau nuôi dạy con cái. Tuy nhiên nếu chị H vẫn cương quyết yêu cầu ly hôn thì anh đồng ý ly hôn.

[3] Tại phiên tòa; Nguyên đơn chị Hoàng Thị H vẫn giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn với anh T và anh T cũng đồng ý ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng anh chị đã rất trầm trọng và kéo dài. Trong thời gian xảy ra mâu thuẫn, mặc dù đã được hai bên gia đình, chính quyền địa phương động viên, hòa giải nhiều lần nhưng anh chị vẫn không có ý thức để hàn gắn, duy trì cuộc sống gia đình. Do vậy cần công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Văn T là phù hợp với quy định tại Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Nguyễn Hoàng Nhật A, sinh ngày 28/7/2014, hiện nay cháu khỏe mạnh phát triển bình thường và đang ở với anh T, tại phiên tòa cả chị H và anh T đều có nguyện vọng được nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy; đối với chị H thì hiện nay chị đang làm công nhân may tại Tp. Hồ Chí Minh, thu nhập, nơi ăn chốn ở và thời gian làm việc không ổn định. Vì vậy điều kiện để nuôi con có phần hạn chế hơn so với anh T. Về phía cháu Nguyễn Hoàng Nhật A, hiện nay cháu đang ở với bố và ông bà nội tại thôn Đ, xã C được 02 năm nay; theo xác minh tại địa phương thì cháu được chăm sóc, sinh hoạt, học hành đầy đủ như những trẻ em khác tại địa phương, gia đình không xảy ra tình trạng bạo lực gia đình. Anh T làm rẫy của gia đình và làm thuê tại địa phương, mức thu nhập trung bình vào khoảng 180.000đ đến 200.000 đồng/ ngày. Như vậy xét về mặt điều kiện cũng như để đảm bảo cho sự ổn định và sự phát triển bình thường của cháu Nhật A. Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu Nguyễn Hoàng Nhật A cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.

Tài sản chung, nợ chung: Chị H, anh T không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí LHST: Nguyên đơn chị Hoàng Thị H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ Điều 51; Điều 55; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và  Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Hoàng Thị H.

- Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Văn T .

- Về con chung: Không chấp nhận yêu cầu xin nuôi con của chị Hoàng Thị H; giao cháu Nguyễn Hoàng Nhật A, sinh ngày 28/7/2014 cho anh Nguyễn Văn T được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc hai bên bố mẹ, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung.Chị Hoàng Thị H được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được ngăn cản quyền này.

- Tài sản chung, nợ chung: Chị H, anh T không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

- Về án phí LHST: Chị Hoàng Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2017/0002001 ngày 22/02/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện CưM’gar, tỉnh ĐắkLắk.

Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2018/HNGĐ-ST ngày 04/07/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:16/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư M'gar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về