Bản án 16/2017/HSST ngày 24/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 16/2017/HSST NGÀY 24/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 11 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên; Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 12/2017/HSST ngày 03 tháng 11 năm 2017 đối với:

Bị cáo: Cà Văn H; Tên gọi khác: Không;

Sinh ngày 11 tháng 11 năm 1984, tại Điện Biên;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Đội 16, bản N, xã Ta, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên;

Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Thái; Con ông Cà Văn M và bà Cà Thị Úi;

Vợ con: Chưa có; Tiền sự: Không; Tiền án: Không;

Bị tạm giữ từ ngày 25 tháng 7 năm 2017, sau đó bị tạm giam cho đến nay; Có mặt.

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Cà Văn M; địa chỉ: Đội 16, bản N, xã Ta, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Hồi 08 giờ 30 phút ngày 25/7/2017 tại tổ dân phố 10, phường Tân Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên; Cà Văn H bị tổ công tác công an thành phố Điện Biên Phủ phát hiện đang điều khiển xe máy biển kiểm soát 27B-446.93 thì dừng lại và thả từ tay xuống đường một gói bằng 02 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng, bên trong có các cục thể rắn màu trắng đục có trọng lượng 0,45 gam, H khai đó là Hêrôin H nhờ L hộ để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản, thu giữ vật chứng tạm giữ xe máy H đang sử dụng cùng đăng ký xe và một số giấy tờ khác mang tên Cà Văn H; một ví giả da, một điện thoại di động Itel và 56.000 đồng.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên; đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố, hành vi cất giấu Hêrôin để sử dụng của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Các vấn đề khác: Kết luận giám định số 638/GĐ-PC54 ngày 31/7/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên có nội dung: Mẫu vật giám định trọng lượng 0,45 gam, là chất ma túy loại Hêrôin, nằm trong danh mục các chất ma túy số thứ tự 20, Danh mục I, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ; hoàn lại 0,42 gam mẫu vật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về kết luận Giám định nêu trên.

3. Cáo trạng của Viện kiểm sát: Cáo trạng số 68/QĐ-VKS-HS ngày 03/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 194 BLHS. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; Nghị quyết 41/2017/QH14 của Quốc hội;  khoản 3 điều 7 và  khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015: Tuyên bố bị cáo phạm tội "Tàng trữa trái phép chất ma túy" và xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù; vật chứng vụ án đề nghị giải quyết theo pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo đã thấy việc làm của mình là phạm pháp, xin được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo:

Lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Cụ thể: Ngày 25/7/2017, tại tổ dân phố 10, phường Tân Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên  bị cáo có hành vi cất giấu 0,45 gam Hêrôin để sử dụng cho bản thân. Khi nhìn thấy Công an, bị cáo thả gói Hêrôin xuống đường, tuy nhiên việc làm của bị cáo đã bị Công an phát hiện bắt giữ cùng tang vật.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 thì: Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ hai năm đến bẩy năm. Theo quy định tại khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 thì: Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm:...c. Hêrôin...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

Như vậy, hình phạt đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo BLHS năm 2015 nhẹ hơn hình phạt về tội này của BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Mặc dù BLHS năm 2015 chưa có hiệu lực thi hành, nhưng theo quy định tại khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015 thì: Điều luật quy định... một hình phạt nhẹ hơn..., thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành. Vì vậy, đối với tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" sẽ được xét xử theo Điều 249 BLHS năm 2015.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, hành vi cất giấu trái phép chất ma túy để sử dụng của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điều luật đã viện dẫn ở trên.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người nghiện ma túy; đã bị xử phạt vi phạm hành chính vào năm 2005 và 2010; đi cai nghiện bắt buộc năm 2013 nhưng lại tái nghiện; đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến việc bị cáo phạm tội. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bố đẻ của bị cáo được Chủ tịch nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 46 BLHS cần được áp dụng đối với bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, nhưng phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng; mức hình phạt và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệmhình sự, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là có cơ sở để chấp nhận.

[4] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 BLHS năm 2015 quy định: "Người phạm tội còn có thể có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng; tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản...". Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, ngoài làm ruộng ra bị cáo có đi làm thuê nhưng thu nhập không ổn định, không có tài sản, vì vậy HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án:

0,42 gam Hêrôin còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành và 03 mảnh giấy bị cáo dùng gói Hêrôin không có giá trị sử dụng tịch thu để hủy; 40.000 đồng H dùng để bọc Hêrôin tịch thu sung công quỹ nhà nước.

Xe máy biển kiểm soát 27B1-446.93 là xe của ông Cà Văn M (bố bị cáo), ông M không có bằng lái nên nhờ H đứng tên đăng ký xe, ông M không biết H việc tàng trữ ma túy của H nên trả lại xe cho ông M.

Ví, tiền, giấy phép lái xe, chứng minh nhân dân, thẻ điều trị Mathadone, điện thoại không liên quan đến hành vi phạm tội và bị cáo đã được nhận lại, nên HĐXX không đề cập giải quyết.

[6] Các vấn đề khác: Bị cáo khai nhờ L mua Hêrôin, nhưng không biết  địa chỉ của L ở đâu nên không có cơ sở đấu tranh làm rõ.

[7] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Cà Văn H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 249 và khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 xử phạt bị cáo Cà Văn H 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ từ (ngày 25 tháng 7 năm 2017). Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

3. Vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 và khoản 2 Điều 41 Bộ luật Hình sự; điểm a, b, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tịch thu để hủy 0,42 gam Hêrôin và 02 mảnh nilon và một mảnh giấy bạc đã niêm phong; Tịch thu xung công quỹ nhà nước 40.000 đồng của bị cáo;

Trả lại cho ông Cà Văn M chiếc xe máy biển kiểm soát 27B1-446.93 cùng chìa khóa và giấy đăng ký xe.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/11/2017 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên).

4. Án phí: Áp dụng theo Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu 200.000 nghìn đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (24/11/2017).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

350
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2017/HSST ngày 24/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:16/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về