Bản án 16/2017/HNGĐ-ST ngày 05/09/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 16/2017/HNGĐ-ST NGÀY 05/09/2017 VỀ LY HÔN,TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 05 tháng 9 năm 2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 114/2017/TLST-HNGĐ, ngày 06 tháng 6 năm 2017 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2017/QĐXX-ST ngày 31 tháng 7 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 14 ngày 17/8/2017 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Trần Thu H - sinh năm: 1975

Địa chỉ: Số nhà 69, tổ dân phố 03, phường TB, thành phố ĐBP, tỉnh ĐB (Có mặt);

* Bị đơn: Ông Vũ Đan T (Tên gọi khác: Vũ Quang Đ) - sinh năm: 1973

Địa chỉ: Số nhà 69, tổ dân phố 03, phường TB, thành phố ĐBP, tỉnh ĐB (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 06/6/2016 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn bà Trần Thu H trình bày:

Về hôn nhân: Bà Trần Thu H và ông Vũ Đan T (tên gọi khác: Vũ Quang Đ) chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc từ năm 1998 nhưng không có đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc được thời gian ngắn, sau đó thường xuyên xảy ra mâu thuẫn đánh chửi nhau, nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, quan điểm sống bất đồng. Hiện bà H và ông T đã sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau. Cho đến nay bà H xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy bà H làm đơn yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố ĐBP giải quyết cho bà H được ly hôn với ông Vũ Đan T (tên gọi khác: Vũ Quang Đ) để bà H yên tâm làm ăn, nuôi con và ổn định cuộc sống mới.

Về con chung: Bà Trần Thu H và ông Vũ Đan T (tên gọi khác: Vũ Quang Đ) có hai con chung là cháu Vũ Việt H sinh ngày 13/12/2002 và cháu Vũ Phương L sinh ngày 11/8/2010. Bà H có nguyện vọng được nuôi cả hai con chung và không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng bà H.

Cháu Vũ Việt H và cháu Vũ Phương L đều có đơn theo nguyện vọng xin được ở với mẹ, bà H đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo nguyện vọng của các cháu.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai bị đơn ông Vũ Đan T (tên gọi khác: Vũ Quang Đ) trình bày:

Về hôn nhân: Ông Vũ Đan T (tên gọi khác: Vũ Quang Đ) và bà Trần Thu H chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc từ năm 1998 nhưng không có đăng ký kết hôn. Trong quá trình chung sống bà H thường xuyên đi xa nhà để lại hai đứa con nhỏ cho ông T nuôi dưỡng, chăm sóc. Ngoài ra bà H còn lấy tiền dành dụm của hai vợ chồng đi lô đề, cờ bạc, tuy ông T đã động viên và cho bà H nhiều cơ hội sửa chữa, ông T cũng đã bán một số tài sản đi để trả nợ cho bà H cụ thể là căn nhà VH 1 (tại số nhà 67, tổ dân phố 3, phường TB); căn nhà VH 2 (tại số nhà 69, tổ dân phố 3, phường TB); căn nhà tại số nhà 77, tổ dân phố 3, phường TB, thành phố ĐBP và một chiếc xe ô tô INOVA biển kiểm soát 30N - 0222. Cho đến nay bà H có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố ĐBP giải quyết ly hôn với ông T, ông T không nhất trí vì thương con, không muốn con cái thiếu thốn tình cảm của bố và mẹ, ông T có nguyện vọng đề nghị tòa án hòa giải cho vợ chồng ông được đoàn tụ, cùng xây dựng hạnh phúc gia đình.

Về con chung: Có hai con chung là cháu Vũ Việt H sinh ngày 13/12/2002 và cháu Vũ Phương L sinh ngày 11/8/2010. Trường hợp vợ chồng ly hôn ông T cũng có nguyện vọng được nuôi cả hai con chung và không yêu cầu bà H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng ông. Ông T có ý kiến cho rằng hai cháu từ bé đều do một mình ông T chăm sóc, nuôi dưỡng vì bà H thường xuyên vắng nhà, không có trách nhiệm gì với con cái gia đình nên ông T rất thương các cháu và không yên tâm để cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng hai cháu.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Hội đồng xét xử xét thấy sau khi thụ lý vụ án ông Vũ Đan T (tên gọi khác: Vũ Quang Đ) đã có văn bản trả lời thông báo thụ lý vụ án của Tòa án đề đạt nguyện vọng được Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ. Ngày 28/6/2017 Tòa án ra thông báo về phiên hòa giải lần 1 và ngày 13/7/2017 Tòa án tiếp tục ra thông báo về phiên hòa giải lần 2 nhưng ông Vũ Đan T (tên gọi khác: Vũ Quang Đ) không đến tham gia phiên hòa giải để trình bày quan điểm của mình, điều đó đã thể hiện ông T chưa thực sự có thiện chí đoàn tụ. Ngày 31 tháng 7 năm 2017 Tòa án ra Quyết định ra vô ,n ra xét xử số 20/2017/QĐXX - ST ngày 31 tháng 7 năm 2017 xét xử và ngày 17/8/2017 nhưng ông T vẫn không có mặt tại phiên tòa. Hội đồng xét xử ra Quyết định hoãn phiên tòa và ấn định phiên tòa xét xử vô ,n ®ĩc mở lại vào hồi 15 giờ 00 phút ngày 05/9/2017. TÊt d c,c thñ tôc tố tụng trên Tòa án tống đạt hợp lệ và niêm yết theo đúng quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

* Về thẩm quyền: Yêu cầu Ly hôn giữa bà Trần Thu H đối với ông Vũ Đan T (tên gọi khác: Vũ Quang Đ) cùng trú tại số nhà 69, tổ dân phố 03, phường TB, thành phố ĐBP, tỉnh ĐB thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên theo quy định tại khoản 1 Điều 29, khoản 1 Điều 39 và điểm a khoản 1 Điều 46 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Trong quá trình giải quyết vụ án ông Vũ Đan T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án liên quan đến việc giải quyết vụ án nhưng ông Vũ Đan T vẫn không đến tham gia phiên tòa. Xét thấy, sự vắng mặt của ông Vũ Đan T không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông Vũ Đan T theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

* Về yêu cầu khởi kiện:

Về hôn nhân: Bà Trần Thu H và ông Vũ Đan T (tên gọi khác: Vũ Quang Đ) tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1998, đủ điều kiện để đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, nhưng ông T - bà H không đi đăng ký kết hôn nên không phát sinh quan hệ vợ chồng. Tại phiên tòa nguyên đơn bà Trần Thu H cũng giữ nguyên quan điểm không nhất trí đoàn tụ vì mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được và yêu cầu HĐXX giải quyết cho bà được ly hôn với ông T. Tòa án cần áp dụng khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình để giải quyết; điều khoản quy định: “Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại Điều 15, Điều 16 của Luật này. ”

Về con chung: Bà H và ông T có hai con chung là Vũ Việt H sinh ngày 13/12/2002 và cháu Vũ Phương L sinh ngày 11/8/2010. Nguyện vọng của bà H và ông T đều muốn trực tiếp nuôi dưỡng cả hai cháu và đều không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng. Xét về mọi mặt thì cả ông T và bà H đều có đủ điều kiện để nuôi cả hai cháu, tuy nhiên cả hai cháu lại có nguyện vọng và mong muốn được ở với bà H. HĐXX xét thấy việc giao cả hai con cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của hai cháu Vũ Việt H, Vũ Phương L và phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Chấp nhận sự tự nguyện của bà H không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung cùng bà H.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Trần Thu H và ông Vũ Đan T không có yêu cầu tòa giải quyết, nên tại phiên tòa hôm nay HĐXX không đề cập giải quyết.

Về án phí: Bà Trần Thu H phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn của mình theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng, án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 29, khoản 1 Điều 39 và điểm a khoản 1 Điều 46; điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 53, khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Trần Thu H và ông Vũ Đan T (tên gọi khác: Vũ Quang Đ).

2. Về con chung: Giao hai con chung là cháu Vũ Việt H sinh ngày 13/12/2002 và cháu Vũ Phương L sinh ngày 11/8/2010 cho bà Trần Thu H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và chấp nhận sự tự nguyện của bà H không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung cùng bà H.

Ông T có quyền gặp gỡ, thăm nom chăm sóc, giáo dục con chung, không ai có quyền ngăn cản, cản trở. Về lí lịch của con, theo yêu cầu của cha mẹ hoặc cả hai bên cùng sù Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không đề cập giải quyết.

4. Về án phí: Bà Trần Thu H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu Ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0001471 ngày 06 tháng 6 năm 2017 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố ĐBP, tỉnh ĐB.

5. Áp dụng Điều 271 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự: bà Trần Thu H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (05/9/2017); ông Vũ Đan T (tên gọi khác: Vũ Quang Đ) có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2017/HNGĐ-ST ngày 05/09/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:16/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về