TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 160/2020/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 14 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thới Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 291/2020/TLST – HNGĐ ngày 27 tháng 5 năm 2020 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 196/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 21 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị A – sinh năm 1997 (có mặt). Địa chỉ: Ấp M, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Hoàng P – sinh năm 1993 (có mặt) Địa chỉ: Ấp 5, xã L, huyện B, tỉnh Cà Mau.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn chị Nguyễn Thị A trình bày:
Về hôn nhân: Chị và anh P tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn vào ngày 13/5/2019 tại UBND xã Tân Lộc, huyện Thới Bình. Thời gian chung sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, gia đình hai bên có hàn gắn nhiều lần nhưng không có kết quả. Vợ chồng đã ly thân khoảng 06 tháng nay, chị A đã về nhà cha mẹ ruột ở ấp M, xã K, huyện T sống cho đến nay. Vì vậy, chị A yêu cầu được ly hôn với anh P.
Về con chung: Có 01 con tên Nguyễn Phát Tài (giới tính nam), sinh ngày 18/12/2019 hiện đang sống với chị A. Khi ly hôn chị A yêu cầu được tiếp tục nuôi con và yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
Về tài sản chung: Vợ chồng có 10 chỉ vàng cha mẹ cho trong ngày cưới, khi chị sinh con có bán 01 chỉ vàng 24K, khi về nhà cha mẹ ruột chị có bán thêm 05 chỉ để nuôi con, nên hiện nay số vàng chung của vợ chồng chỉ còn lại 04 chỉ vàng 24K, chị A cũng đồng ý chia đôi 04 chỉ vàng 24K, mỗi người 02 chỉ vàng 24K.
Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Nguyễn Hoàng P trình bày:
Anh P thống nhất với lời trình bày của chị A về các vấn đề hôn nhân, con chung và nợ chung. Tuy nhiên theo anh P mâu thuẫn vợ chồng là không lớn nhưng nếu chị A cương quyết ly hôn thì anh P cũng thống nhất ly hôn theo yêu cầu của chị A.
Về con chung: Có 01 con tên Nguyễn Phát Tài, có tên khác là Nguyễn Hoàng Đông (giới tính nam), sinh ngày 18/12/2019 hiện đang sống với chị A. Khi ly hôn anh P tự nguyện giao cháu Tài cho chị A tiếp tục nuôi dưỡng, anh P không đồng ý cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Vợ chồng có 10 chỉ vàng cha mẹ cho chung trong ngày cưới, vợ chồng đã bán 01 chỉ vàng 24K để nuôi con nên anh P thống nhất vợ chồng còn lại 09 chỉ vàng 24K và yêu cầu chia đôi 09 chỉ vàng 24K, mỗi người 4,5 chỉ vàng 24K.
Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa hôm nay:
Chị A vẫn giữ nguyên yêu cầu về hôn nhân, con chung, nợ chung. Riêng tài sản chung chị A thống nhất tài sản chung của vợ chồng là 09 chỉ vàng 24K và đồng ý chia đôi mỗi người 4,5 chỉ vàng, chị A đồng ý giao lại cho anh P 4,5 chỉ vàng 24K là phần anh P được nhận.
Anh P vẫn bảo lưu các yêu cầu của mình như đã trình bày trong quá trình giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thực hiện đúng quy định của pháp luật; về nội dung vụ án: Đề nghị công nhận sự tự nguyện ly hôn của chị Nguyễn Thị A và anh Nguyễn Hoàng P.
Về con chung: Ghi nhận sự tự nguyện của chị A và anh P giao cháu Nguyễn Phát Tài, có tên khác là Nguyễn Hoàng Đông (giới tính nam), sinh ngày 18/12/2019 cho chị A tiếp tục nuôi dưỡng. Buộc anh P cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 745.000 đồng, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi cháu Tài đủ 18 tuổi.
Về tài sản chung: Ghi nhận sự thỏa thuận của chị A và anh P thống nhất tài sản chung của vợ chồng là 09 chỉ vàng 24K, mỗi người được sở hữu 4,5 chỉ vàng 24K. Chị A đang quản lý tài sản chung có trách nhiệm giao lại cho anh P 4,5 chỉ vàng 24K.
Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về án phí nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng và quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Nguyễn Thị A khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn là Nguyễn Hoàng P. Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình, về việc ly hôn; Anh P có nơi cư trú tại ấp 5, xã Tân Lộc, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của chị A thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về NỘI DUNG VỤ ÁN
[2.1] Về hôn nhân: Chị A và anh P tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn vào ngày 13/5/2019 tại UBND xã Tân Lộc, huyện Thới Bình. Thời gian chung sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, gia đình hai bên có hàn gắn nhiều lần nhưng không có kết quả. Vợ chồng đã ly thân khoảng 06 tháng nay, chị A đã đem con về nhà cha mẹ ruột chị tại ấp M, xã K, huyện T sống cho đến nay. Điều này phù hợp với đơn xin xác nhận tình trạng hôn nhân của chính quyền địa P xã K nơi chị A đang sống và biên bản lấy lời khai người làm chứng ngày 04/8/2020. Xét thấy, trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án có tiến hành hòa giải để chị A và anh P có điều kiện gặp nhau thỏa thuận đoàn tụ gia đình nhưng chị A vẫn cương quyết ly hôn. Điều đó cho thấy hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của chị A được ly hôn với anh P.
[2.2] Về con chung: Chị A và anh P có 01 con tên Nguyễn Phát Tài, có tên khác là Nguyễn Hoàng Đông (giới tính nam), sinh ngày 18/12/2019 hiện đang sống với chị A. Khi ly hôn anh P tự nguyện giao cháu Tài cho chị A tiếp tục nuôi dưỡng, cháu Tài dưới 12 tháng tuổi nên cần giao cháu Tài cho chị A tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp.
Đối với việc chị A yêu cầu anh P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Xét thấy, cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con nhằm đảm bảo quyền lợi của con chung. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của chị A, buộc anh P cấp dưỡng nuôi cháu Tài mỗi tháng 745.000 đồng, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi cháu đủ 18 tuổi.
Kể từ khi có quyết định và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
Anh P không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung phù hợp với quy định pháp luật, không ai được cản trở.
[2.3] Về tài sản chung: Chị A và anh P đều xác định vợ chồng có tài sản chung là số vàng cha mẹ cho trong ngày cưới và thống nhất chia đôi khi ly hôn. Tại phiên tòa, chị A và anh P đều thống nhất số vàng chung là 10 chỉ vàng 24K, đã bán 01 chỉ, còn lại là 09 chỉ vàng 24K, và thống nhất chia đôi mỗi người 4,5 chỉ vàng 24K, cần công nhận sự tự nguyện của các đương sự về việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Theo đó, tài sản chung của vợ chồng là 09 chỉ vàng 24K, chị A và anh P mỗi người được sở hữu 4,5 chỉ vàng 24K. Chị A đang quản lý tài sản chung có trách nhiệm giao lại cho anh P 4,5 chỉ vàng 24K.
[2.4] Về nợ chung: Chị A xác định vợ chồng không có nợ chung nên không yêu cầu giải quyết. Tại xác nhận ngày 15/6/2020 của UBND xã Tân Lộc xác nhận hiện tại không ai khiếu kiện chị A và anh P về nợ tại địa phương. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét là phù hợp.
[3] Về án phí sơ thẩm: Chị A phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, án phí chia tài sản khi ly hôn; Anh P phải chịu án phí cấp dưỡng, án phí chia tài sản khi ly hôn theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[4] Các đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật.
[5] Xét đề nghị của kiểm sát viên tại phiên tòa là có cơ sở nên cần chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 56, 59, 81, 82, 83, 107, 110, 116 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị A được ly hôn với anh Nguyễn Hoàng P.
2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Phát Tài, có tên khác là Nguyễn Hoàng Đông, sinh ngày 18/12/2019 (giới tính nam) cho chị A tiếp tục nuôi dưỡng.
Buộc anh P cấp dưỡng nuôi cháu Tài mỗi tháng 745.000 đồng, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi cháu Tài đủ 18 tuổi.
Kể từ khi có quyết định và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
Anh P không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung phù hợp với quy định pháp luật, không ai được cản trở.
3. Về tài sản chung: Công nhận sự tự nguyện của các đương sự về việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, xác định tài sản chung của vợ chồng là 09 chỉ vàng 24K, chị A và anh P mỗi người được sở hữu 4,5 chỉ vàng 24K. Chị A đang quản lý tài sản chung có trách nhiệm giao lại cho anh P 4,5 chỉ vàng 24K.
4. Về án phí sơ thẩm:
Chị A phải chịu án phí hôn nhân và gia đình số tiền 300.000 đồng, án phí chia tài sản là 1.215.000 đồng. Tổng hai khoản là 1.515.000 đồng. Ngày 15/6/2020 chị A đã dự nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0011283 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình được đối trừ, còn lại phải nôp tiếp số tiền 1.215.000 đồng.
Anh P phải chịu án phí cấp dưỡng số tiền 300.000 đồng, án phí chia tài sản là 1.215.000 đồng. Tổng hai khoản là 1.515.000 đồng. Ngày 06/7/2020 anh P đã dự nộp tạm ứng án phí số tiền 598.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0011320 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình được đối trừ, còn lại phải nôp tiếp số tiền 917.000 đồng.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
6. Chị A, anh P có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo luật định.
Bản án 160/2020/HNGĐ-ST ngày 14/09/2020 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 160/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về