Bản án 160/2020/HNGĐ-ST ngày 07/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM BÌNH, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 160/2020/HNGĐ-ST NGÀY 07/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 07 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 471/2020/TLST-H N G Đ ngày 09 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:173/2020/QĐXXST- HNGĐ, ngày 20 tháng 11 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ấ, sinh năm 1987 – có mặt Nơi ĐKHKTT: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Vĩnh Long.

- Bị đơn: Anh Trần Văn P, sinh năm 1986 (Anh P có đơn xin xét xử vắng mặt) Nơi ĐKHKTT: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện ngày 07 tháng 10 năm 2020 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ấ trình bày như sau:

Về hôn nhân: Chị Ấ và anh P vợ chồng có tổ chức lễ cưới vào ngày 17/8/2008 dương lịch, hôn nhân do quen biết, tự nguyện không bị ép buộc, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Vĩnh Long vào ngày 02/02/2009. Vợ chồng sống hạnh phúc với nhau được khoảng 04 năm thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn từ tháng 02/2012 và chính thức ly thân từ tháng 01/2018dl cho đến nay.

Nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng theo chị Ấ là do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng nói chuyện với nhau là khắc khẩu thường xuyên cự cãi. Hơn nữa, anh P không quan tâm, chăm sóc vợ con, lâu dần làm mất hạnh phúc gia đình, chị Ấ xác định tình cảm vợ chồng dành cho anh P không còn nữa nên cương quyết ly hôn.

Về con chung: Chị Ấ trình bày vợ chồng có 03 người con chung tên Trần Đ, sinh ngày 04/12/2008; Trần Thị Mỹ A, sinh ngày 10/4/2010 và Trần K, sinh ngày 18/01/2012, hiện các cháu đang do chị Ấ trực tiếp nuôi dưỡng.

Về tài sản chung: Chị Ấ trình bày không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Chị Ấ trình bày không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nay chị Ấ yêu cầu được ly hôn với anh Trần Văn P; Về con chung: Chị Ấ yêu cầu được nuôi 03 con chung tên Trần Đ, sinh ngày 04/12/2008, Trần Thị Mỹ A, sinh ngày 10/4/2010 và Trần K, sinh ngày 18/01/2012, yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ/tháng/01 cháu cho đến khi 03 cháu đủ 18 tuổi; Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra không yêu cầu gì thêm.

- Tại bản khai ngày 26 tháng 11 năm 2020 anh Trần Văn P trình bày:

Về vấn đề hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung ông P thống nhất theo lời trình bày của chị Ấ. Tuy nhiên theo anh P vợ chồng sống với nhau hạnh phúc được 05 năm thì phát sinh mâu thuẫn vào năm 2012 và ly thân đến nay. Về nguyên nhân mâu thuẫn thì anh P thừa nhận bản thân không quan tâm chăm sóc vợ con, hơn nữa vợ chồng có nhiều bất đồng quan điểm trong cuộc sống dẫn đến cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc. Tuy nhiên anh P vẫn còn thương vợ con mong muốn được đoàn tụ.

Bị đơn anh P không đồng ý ly hôn với chị Ấ yêu cầu được đoàn tụ vì còn thương vợ con. Nếu trường hợp chị Ấ được Tòa án chấp nhận cho ly hôn thì anh P đồng ý giao 03 con chung tên Trần Đ, sinh ngày 04/12/2008, Trần Thị Mỹ A, sinh ngày 10/4/2010 và Trần K, sinh ngày 18/01/2012 cho chị Ấ chăm sóc nuôi dưỡng. Đồng ý cấp dưỡng nuôi 03 con chung mỗi tháng 2.000.000đ/tháng/01 cháu cho đến khi 03 cháu đủ 18 tuổi; Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Công bố chứng cứ:

Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn không có yêu cầu gì thêm và không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì khác.

Bị đơn là anh Trần Văn P nộp chứng cứ là bảng tự khai và đơn yêu cầu xin Tòa án xét xử vắng mặt, đơn đề ngày 26/11/2020

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Vào ngày 26/11/2020 bị đơn anh Trần Văn P có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt đối với anh P tại phiên tòa vào ngày 7/12/2020. Do vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vằng mặt đối vối anh Trần Văn P là đúng theo quy định pháp luật.

[2] Về nội dụng vụ án: Tại phiên tòa chị Ấ giữ yêu cầu ly hôn với anh Trần Văn P; Về con chung: Chị Ấ yêu cầu được nuôi 03 con chung tên Trần Đ, sinh ngày 04/12/2008, Trần Thị Mỹ A, sinh ngày 10/4/2010 và Trần K, sinh ngày 18/01/2012, chị Ấ yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng bằng 2.000.000đ/tháng/01 cháu cho đến khi các con là cháu Đ, cháu A và cháu K đủ 18 tuổi; Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bảng tự khai đề ngày 26/11/2020 của anh Trần Văn P trình bày là anh P không đồng ý ly hôn với chị Nguyễn Thị Ấ yêu cầu được đoàn tụ vì còn thương vợ con. Nếu trường hợp Tòa án chấp nhận cho chị Ấ ly hôn thì anh P đồng ý giao 03 con chung tên Trần Đ, sinh ngày 04/12/2008, Trần Thị Mỹ A, sinh ngày 10/4/2010 và Trần K, sinh ngày 18/01/2012 cho chị Ấ chăm sóc nuôi dưỡng. Đồng ý cấp dưỡng nuôi 03 con chung mỗi tháng bằng 2.000.000đ/tháng/01 cháu cho đến khi các con là cháu Đ, cháu A và cháu K đủ 18 tuổi; Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2.1] Xét về hôn nhân: Chị Ấ và anh P vợ chồng tiến tới hôn nhân có tổ chức lễ cưới hỏi đàng hoàng và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Vĩnh Long đúng theo quy định pháp luật nên đây là hôn nhân hợp pháp. Vì vậy, việc chị Ấ yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh P là có cơ sở xem xét.

Xét về nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng theo chị Ấ và anh P là do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Mặc khác, chị Ấ khẳng định hiện tại đã không còn tình cảm vợ chồng với anh P nên cương quyết ly hôn. Còn phía anh P mong muốn chị Ấ tha thứ trở về vợ chồng cùng nuôi dạy các con nhưng chị Ấ vẫn không đồng ý về đoàn tụ.

Từ những lời trình bày của chị Ấ và tại bảng khai của anh P cho thấy rằng nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị Ấ và anh P là vi phạm nghĩa vụ vợ chồng mà vợ chồng trao đổi nhiều lần không sửa chữa được nên không thể tiếp tục chung sống được nữa. Từ đó cho thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị Ấ và anh P đã đến mức trầm trọng, đời sống chung vợ chồng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử xét chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Ấ đối với anh P theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 là có căn cứ;

[2.2] Xét về con chung: Tại phiên tòa hôm nay chị Ấ giữ yêu cầu là xin được nuôi 03 con chung tên Trần Đ, sinh ngày 04/12/2008, Trần Thị Mỹ A, sinh ngày 10/4/2010 và Trần K, sinh ngày 18/01/2012. Ngoài ra chị Ấ còn yêu cầu anh P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng bằng 2.000.000đ/tháng/01 cháu cho đến khi các con là cháu Trần Đ, cháu Mỹ A và cháu Trần K đủ 18 tuổi.

Tại bản khai đề ngày 26/11/2020 ý kiến của anh P là đồng ý giao 03 con chung tên Trần Đ, sinh ngày 04/12/2008, Trần Thị Mỹ A, sinh ngày 10/4/2010 và Trần K, sinh ngày 18/01/2012 cho chị Ấ tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng, anh P tự nguyện cấp dưỡng nuôi 03 con chung mỗi tháng bằng 2.000.000đ/tháng/01 cháu cho đến khi các con là cháu Trần Đ, cháu Mỹ A và cháu Trần K đủ 18 tuổi.

Đồng thời tại các bản khai ý kiến cùng ngày 20/11/2020 của cháu Trần Đ, cháu Mỹ A và cháu Trần K cùng có nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ là chị Nguyễn Thị Ấ sau khi cha mẹ ly hôn với nhau. Hơn nữa, theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định “Con từ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Trong vụ án này cháu Đ, cháu A và cháu K đã trên 07 tuổi nên xét thấy cần phải xem xét nguyện vọng của các cháu. Từ những nhận định trên Hội đồng xét xử xét chấp nhận yêu cầu xin được nuôi con của chị Ấ là có căn cứ chấp nhận. Do vậy tiếp tục giao các con là cháu Trần Đ, sinh ngày 04/12/2008, cháu Trần Thị Mỹ A, sinh ngày 10/4/2010 và cháu Trần K, sinh ngày 18/01/2012 cho chị Ấ trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Xét yêu cầu của chị Ấ là yêu cầu anh P phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi 03 con chung là cháu Đ, cháu A và cháu K mỗi tháng bằng 2.000.000đ/tháng/01 cháu cho đến khi các con là cháu Đ, cháu A và cháu K đủ 18 tuổi là có cơ sở xem xét; Bởi lẽ, theo quy định tại khoản 2 Điều 82 và Điều 110 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Hơn nữa, tại bản khai đề ngày 26/11/20220 ý kiến của anh P là về mức cấp dưỡng là anh P tự nguyện đồng ý cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng bằng 2.000.000đ/tháng/01 cháu cho đến khi các con là cháu Đ, cháu A và cháu K đủ 18 tuổi. Do vậy, Hội đồng xét xử xét chấp nhận yêu cầu của chị Ấ là yêu cầu anh P có nghĩa vụ về việc cấp dưỡng nuôi con.

Do vậy anh Trần Văn P có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chung là cháu Trần Đ, sinh ngày 04/12/2008, cháu Trần Thị Mỹ A, sinh ngày 10/4/2010 và cháu Trần K, sinh ngày 18/01/2012 mỗi tháng bằng 2.000.000đ/tháng/01 cháu cho đến khi các con là Trần Đ, cháu Trần Thị Mỹ A và cháu Trần K đủ 18 tuổi. Việc cấp dưỡng nuôi con của anh P được thực hiện ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Anh P không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[2.3] Xét về tài sản chung: Chị Ấ và anh P thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2.4] Xét về nợ chung: Chị Ấ và anh P thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Chị Nguyễn Thị Ấ phải nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí về việc ly hôn, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0010542, ngày 09 tháng 10 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Vĩnh Long.

- Anh Trần Văn P phải nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí về việc cấp dưỡng nuôi con, nộp Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Vĩnh Long.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ vào các Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 110 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Ấ;

- Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Ấ được ly hôn với anh Trần Văn P;

- Về con chung: Giao 03 con chung tên Trần Đ, sinh ngày 04/12/2008, Trần Thị Mỹ A, sinh ngày 10/4/2010 và Trần K, sinh ngày 18/01/2012 cho chị Ấ tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Trần Văn P có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chung là cháu Trần Đ, sinh ngày 04/12/2008, cháu Trần Thị Mỹ A, sinh ngày 10/4/2010 và cháu Trần K, sinh ngày 18/01/2012 mỗi tháng bằng 2.000.000đ/tháng/01 cháu cho đến khi các con là cháu Trần Đ, cháu Trần Thị Mỹ A và cháu Trần K đủ 18 tuổi. Việc cấp dưỡng nuôi con của anh P được thực hiện ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, khoản tiền phải trả cho người được thi hành án, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Anh P không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Ấ và anh Trần Văn P thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị Ấ và anh Trần Văn P thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

+ Chị Nguyễn Thị Ấ phải nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí về việc ly hôn, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0010542, ngày 09 tháng 10 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Vĩnh Long.

+ Anh Trần Văn P phải nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí về việc cấp dưỡng nuôi con, nộp Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Vĩnh Long.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai có mặt nguyên đơn được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đối với bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án được giao hoặc được niêm yết công khai theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 160/2020/HNGĐ-ST ngày 07/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:160/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Bình - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về