Bản án 160/2019/HS-ST ngày 05/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 160/2019/HS-ST NGÀY 05/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 150/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 168/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Trọng N, sinh năm 1996 tại tỉnh Quảng Ngãi; thường trú: khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Phụ việc gia đình; trình độ học vấn: 10/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông Lê Thanh Đ, sinh năm 1965 và bà Nguyễn Thị Minh D, sinh năm 1973; có 03 anh em ruột, lớn nhất sinh năm 1991, nhỏ nhất sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 17/4/2019, có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến: Hoàng Tiến T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Trọng Nghĩa là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy từ tháng 5 năm 2018, loại ma túy Nghĩa sử dụng, tên khoa học là Methamphetamine.

Khoảng 19 giờ ngày 16/4/2019 Lê Trọng N đón xe mô tô chở khách đi từ nhà ở khu phố Đông Thành, phường Tân Đông Hiệp, thị xã Dĩ An, đến khu vực đường phía sau nghĩa trang thành phố Hồ Chí Minh thuộc phường Linh Trung, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, N vào quán cà phê vỉa hè gặp đối tượng tên B (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 2.400.000 đồng ma túy đá, tên B bán cho Nghĩa 01 túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng. N mang số ma túy về nhà phân ra thành các gói ma túy nhỏ, gồm: 03 gói lynon hàn kín kích cỡ 4,5 x 01cm; 04 gói nylon hàn kín kích cỡ 03 x 01cm và số ma túy còn lại vẫn để trong túi nylon miệng kéo dính. Tất cả số ma túy trên N cất giữ trong cái bóp da màu nâu và mang theo trong người. Sau đó N đi dự tiệc sinh nhật bạn bè, đến khoảng 19 giờ ngày 17/4/2019 N đến quán cà phê Như Ngọc do anh Hoàng Tiến T quản lý, N vào trong chòi lá thứ 6 uống nước. Một lúc sau, Đội cảnh sát ma túy Công an thị xã Dĩ An phối hợp với Công an phường Đông Hòa vào kiểm tra hành chính quán cà phê Như Ngọc và kiểm tra giấy tờ tùy thân của N, N tự lấy 01 cái bóp màu nâu đang để trên võng giao nộp cho lực lượng Công an, trong bóp màu nâu có 01 túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng, 03 gói nylon hàn kín kích cỡ 4,5 x 01cm chứa tinh thể màu trắng, 04 gói nylon hàn kín kích cỡ 03 x 01cm chứa tinh thể màu trắng, N khai nhận tinh thể màu trắng trên là ma túy đá. Lực lượng Công an lập biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú đối với Lê Trọng N, thu giữ số ma túy.

Vật chứng thu giữ: 03 gói nylon hàn kín kích cỡ 4,5 x 01cm, 04 gói nylon hàn kín kích cỡ 03 x 01cm chứa tinh thể màu trắng, khối lượng 1,4490 gam (M1); 01 túi nylon miệng kéo dính bên trong chứa tinh thể màu trắng, khối lượng 3,5352 gam (M2); 01 bóp màu nâu.

Theo kết luận giám định số 322/MT-PC09 ngày 23/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định đều là ma túy, có khối lượng 1,4490 gam (M1); 3,5352 gam (M2), loại Methamphetamine.

Đối với người đàn ông tên B đã bán ma túy cho N hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Tại cáo trạng số 170/CT-VKS-DA ngày 14 tháng 5 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lê Trọng N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Lê Trọng N mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì thư đã niêm phong bên trong có chứa 1,4490 gam, chất Methamphetamine; 01 (một) bì thư đã niêm phong bên trong có chứa 3,5352 gam, chất Methamphetamine, mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 bóp màu nâu.

Tại phiên tòa, trong phần thực hiện nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Lê Trọng N là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, loại ma túy N dùng là chất Methamphetamine. Khoảng 19 giờ ngày 16/4/2019 N đón xe mô tô chở khách đến khu vực đường phía sau nghĩa trang thành phố Hồ Chí Minh thuộc phường Linh Trung, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh gặp đối tượng tên B mua 01 gói nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng, giá 2.400.000 đồng. Sau đó N mang số ma túy về nhà phân ra thành các gói ma túy nhỏ gồm: 03 gói lynon hàn kín kích cỡ 4,5 x 01cm; 04 gói nylon hàn kín kích cỡ 03 x 01cm và số ma túy còn lại vẫn để trong túi nylon miệng kéo dính. Tất cả số ma túy trên N cất giữ trong cái bóp da màu nâu mang theo bên người. Đến khoảng 19 giờ ngày 17/4/2019 N đến quán cà phê Như Ngọc uống nước thì Đội cảnh sát ma túy Công an thị xã Dĩ An phối hợp với Công an phường Đông Hòa vào kiểm tra hành chính quán cà phê Như Ngọc và kiểm tra giấy tờ tùy thân của N nên N tự lấy 01 cái bóp màu nâu giao nộp cho lực lượng Công an, trong bóp có chứa 03 gói nylon hàn kín kích cỡ 4,5 x 1cm, 04 gói nylon hàn kín kích cỡ 03 x 01cm chứa tinh thể màu trắng, khối lượng 1,4490 gam; 01 túi nylon miệng kéo dính bên trong chứa tinh thể màu trắng, khối lượng 3,5352 gam.

Theo kết luận giám định số 322/MT-PC09 ngày 23/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định đều là ma túy, có khối lượng 1,4490 gam (M1); 3,5352 gam (M2), loại chất Methamphetamine.

Theo quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: .......

c) Heroin, Cocaine, Methemphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; .......

Hành vi của bị cáo Lê Trọng N tàng trữ 03 gói nylon hàn kín kích cỡ 4,5 x 01cm, 04 gói nylon hàn kín kích cỡ 03 x 01cm chứa tinh thể màu trắng, khối lượng 1,4490 gam; 01 túi nylon miệng kéo dính bên trong chứa tinh thể màu trắng, khối lượng 3,5352 gam để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 170/CT–VKS-DA ngày 14 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo được xem xét khi quyết định hình phạt: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

[6] Về nhân thân: Bị cáo là người lao động nghiện ma túy.

[7] Xử lý vật chứng: Xét 01 (một) bì thư đã niêm phong bên trong có chứa 1,4490 gam, chất Methamphetamine; 01 bì thư đã niêm phong bên trong có chứa 3,5352 gam, chất Methamphetamine là vật cấm lưu thông, 01 bóp màu nâu không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[9] Đối với người đàn ông tên B đã bán ma túy cho N hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp.

[10] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Trọng N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Trọng N 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/4/2019.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 bỳ thư được niêm phong bên trong có chứa chất Methamphetamine, trọng lượng sau giám định là M1 = 1,4341 gam; M2= 3,4610 gam; 01 (một) bóp màu nâu.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/5/2019, bút lục 72).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Lê Trọng N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

278
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 160/2019/HS-ST ngày 05/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:160/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về