Bản án 159/2020/HS-ST ngày 20/08/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 159/2020/HS-ST NGÀY 20/08/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 20 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 151/2020/HSST ngày 17 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 150/2020/HSST-QĐ ngày 05 tháng 8 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: P C S, sinh năm 1984, tại tỉnh A; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp C, xã C Đ, huyện Ch Th, tỉnh A G; chỗ ở: Phòng 08, nhà ở công nhân Becamex, đường D1, k 6, phường Th H, thị xã B C, tỉnh B D; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Cao Đài; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 5/12; cha Phan Văn M, sinh năm 1965; mẹ Lê Thị T L, sinh năm 1963; bị cáo có 03 anh em, lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 1998; vợ Bùi Thị K Th, sinh năm 1985; bị cáo có 03 con, lớn nhất sinh năm 2001, nhỏ nhất sinh năm 2009.

Tiền án, Tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại có mặt.

2. Họ và tên N X C, sinh năm 1990, tại tỉnh Kiên Giang; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã Th Tr, huyện Tân H, tỉnh K; chỗ ở: Ấp T, xã Th Tr, huyện T H, tỉnh K; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 08/12; cha: Nguyễn Văn Th, sinh năm 1960; mẹ Phạm Thị Hư, sinh năm 1962; bị cáo có 03 anh chị em, lớn nhất sinh năm 1984, nhỏ nhất là bị cáo.

Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

3. Họ và tên N V Đ, sinh năm 1954, tại tỉnh C; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp L, xã T H Đ, huyện C N, tỉnh C; chỗ ở: K 6, phường Th H, thị xã B C, tỉnh B D; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Xe ôm; trình độ học vấn: 6/12; cha Nguyễn Văn S, sinh năm 1933 (đã chết); mẹ Nguyễn Thị D, sinh năm 1935 (đã chết); bị cáo có 07 anh em, lớn nhất sinh năm 1950, nhỏ nhất sinh năm 1963; vợ Lê Thị L Th, sinh năm 1955; bị cáo có 05 con, lớn nhất sinh năm 1982, nhỏ nhất sinh năm 1993.

Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

4. Họ và tên Đ H TH, sinh năm 1989 tại tỉnh S; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp Nh, xã G, huyện M, tỉnh S; chỗ ở: K 6, phường Th H, thị xã B C, tỉnh B D; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 3/12; cha Đỗ Hoàng M, sinh năm 1957 (đã chết); mẹ Võ Thị Th, sinh năm 1959; bị cáo có 05 anh chị em, lớn nhất sinh năm 1979, nhỏ nhất sinh năm là bị cáo.

Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

5. Họ và tên N Tr D, sinh ngày 27/02/1998 tại tỉnh B; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp B 2, xã L Đ Đ, huyện Đ H, tỉnh B; chỗ ở: K 6, phường Th H, thị xã B C, tỉnh B D; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 8/12; cha Nguyễn Minh Đ, sinh năm 1968; mẹ Trần Diễm Th, sinh năm 1973.

Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

6. Họ và tên Tr Th Nh Th, sinh năm 1983 tại tỉnh K; tên gọi khác: Không; giới tính: Nữ; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: K 4, phường R, Tnh phố R, tỉnh K; chỗ ở: K 4, phường R, Tnh phố R, tỉnh K; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 00/12; cha Trần Văn M (đã chết); mẹ Nguyễn Thị B (đã chết); bị cáo có 04 anh em, lớn nhất sinh năm 1973, nhỏ nhất sinh năm 1984.

Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

7. Họ và tên L H Nh, sinh năm 1976 tại tỉnh C; tên gọi khác: Không; giới tính: Nữ; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp H, xã N, huyện Đ, tỉnh C; chỗ ở: K 6, phường Th H, thị xã B C, tỉnh B D; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Thợ may; trình độ học vấn: 6/12; cha L Văn Đ, sinh năm 1952; mẹ Lý Th L, sinh năm 1952; bị cáo có 08 chị em, lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 1993 (đã chết) Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 14/02/2020, bị Công an phường Thới Hòa ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 56/QĐ số tiền 1.500.000 đồng về hành vi Đánh bạc, đã chấp hành xong hình phạt ngày 23/2/2020.

Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

8. Họ và tên Ng Th Ch, sinh năm 1992 tại tỉnh B; tên gọi khác: Không; giới tính: Nữ; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã V, huyện P, tỉnh B; chỗ ở: K6, phường Th H, thị xã B C, tỉnh B D; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 05/12; cha Nguyễn Văn Nh, sinh năm 1965; mẹ Đặng Thị L, sinh năm 1965; bị cáo có 08 anh chị em, lớn nhất sinh năm không rõ, nhỏ nhất sinh năm 2006; chồng Ngô Quốc Kh, sinh năm 1988; bị cáo có 03 con, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2020.

Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ 40 phút ngày 15/02/2020, Công an thị xã Bến Cát phối hợp với Công an phường Thới Hòa phát hiện, bắt quả tang 07 đối tượng đang đánh bạc dưới hình thức bài binh ấn độ thắng thua bằng tiền tại vị trí phía sau chuồng gà thuộc lô đất cạnh nhà trọ Hoàng Thi tr n đường D18 thuộc khu phố 6, phường Thới Hòa, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, gồm: N X C, N V Đ, Đ H TH, N Tr D, Tr Th Nh Th, L H Nh, Ng Th Ch, ri ng đối tượng P C S chạy thoát.

* Tang vật thu giữ trên chiếu bạc gồm:

Số tiền: 12.700.000 đồng; 01 bộ bài tây 52 lá, đã qua sử dụng; 01 tấm chiếu, kích thước 1,6m x 02m, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu xanh, đen, sim số 0399492944, đã qua sử dụng; 02 ghế nhựa màu đỏ, đã qua sử dụng.

* Tạm giữ đồ vật, tài liệu:

- P C S số tiền 500.000 đồng;

- N X C: 01 cái bóp và số tiền 400.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen;

- N V Đ: 01 giấy chứng minh nhân dân mang số 380077956; Số tiền 250.000 đồng cất trong ống quần; số tiền 270.000 đồng trong bóp; 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 màu bạc;

- Đ H TH số tiền 400.000 đồng ở túi quần sau bên phải; 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh;

- N Tr D số tiền 3.640.000 đồng;

- Tr Th Nh Th số tiền 300.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu vàng gold;

- L H Nh số tiền 210.000 đồng ở túi quần bên phải; số tiền 200.000 đồng ở túi áo khoác;

- Ng Th Ch số tiền 2.500.000 đồng trong áo ngực bên phải; số tiền 700.000 đồng trong túi áo khoác bên phải; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A50 màu trắng; 01 chứng minh nhân dân mang; 01 sổ tạm trú; 01 kết quả siêu âm (phô tô);

Hình thức đánh bạc với tên gọi Bài binh Ấn Độ 6 lá như sau:

Bài binh ấn độ sử dụng bộ bài tây 52 lá để đánh bạc, mỗi đối tượng đánh bạc là một tụ, mỗi tụ sẽ được chia 06 lá. Sau khi chia xong thì phân chia ra làm hai chi, mỗi chi 3 lá bài. Cách tính điểm như sau: Lớn nhất là 3 tây (K, Q, J), sau đó đến 9 nút bài, nhỏ nhất là bù, nếu người nào thắng hai chi là thắng, còn thắng 01 chi và thua 01 chi là huề, thua hai chi là thua, người chơi bạc chỉ tính thắng thua với người làm cái. Mức tiền đặt cược mỗi ván thấp nhất là 50.000 đồng và cao nhất là 500.000 đồng. Tỷ lệ chung chi tiền cá cược là 1:1.

Tại cơ quan công an, các đối tượng khai nhận:

Khong 09 giờ 30 ngày 15/2/2020, N X C cùng P C S đến bãi đất trống cạnh nhà trọ Hoàng Thi ở đường D18, khu phố 6, phường Thới Hòa, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương để tham gia đánh bạc, S và C hùn chung vốn làm cái cùng với N V Đ, Đ H TH, N Tr D, Tr Th Nh Th, L Th H Nh, Ng Th Ch tham gia đánh bạc thắng thua bằng tiền. Các đối tượng đánh bạc đến khoảng 11 giờ 40 cùng ngày thì lực lượng Công an bắt quả tang.

Vai trò của từng đối tượng tham gia như sau:

P C S và N X C hùn tiền làm cái, S mang theo 500.000 đồng, sử dụng vào mục đích đánh bạc, khi bị bắt không thắng không thua, chạy thoát sau đó ra đầu thú, bị thu giữ số tiền 500.000 đồng. Tổng số tiền S sử dụng vào mục đích đánh bạc là 500.000 đồng.

- N X C và S hùn tiền làm cái, C mang theo số tiền 9.400.000 đồng, sử dụng 9.000.000 đồng vào mục đích đánh bạc. Khi bị bắt, C không thắng không thua, bị thu giữ số tiền 400.000 đồng trong bóp không dùng để đánh bạc, số tiền C sử dụng đánh bạc là 9.000.000 đồng.

- N V Đ mang theo số tiền 520.000 đồng, sử dụng 250.000 đồng vào mục đích đánh bạc. Khi bị bắt, Đ không thắng không thua, bị thu giữ số tiền 250.000 đồng trong ống quần dùng để đánh bạc và số tiền 270.000 đồng trong bóp không dùng để đánh bạc, số tiền Đ sử dụng đánh bạc là 250.000 đồng.

- Đ H T mang theo số tiền 1.000.000 đồng, sử dụng hết số tiền này vào mục đích đánh bạc. Khi bị bắt, thua 600.000 đồng, bị thu giữ số tiền 400.000 đồng ở túi quần sau bên phải là tiền dùng để đánh bạc, số tiền T sử dụng đánh bạc là 1.000.000 đồng.

- N Tr D mang theo số tiền 3.690.000 đồng, sử dụng 500.000 đồng vào mục đích đánh bạc. Khi bị bắt, D không thắng không thua, bị thu giữ số tiền 450.000 đồng ở túi quần sau b n trái dùng để đánh bạc, số tiền 3.000.000 đồng và 190.000 đồng ở hai bên túi quần phía trước không dùng để đánh bạc, số tiền D sử dụng đánh bạc là 500.000 đồng.

- Tr Th Nh Th mang theo số tiền 350.000 đồng, sử dụng 50.000 đồng vào mục đích đánh bạc. Khi bị bắt, Th không thắng không thua, bị thu giữ số tiền 300.000 đồng không dùng để đánh bạc, số tiền Th sử dụng đánh bạc là 50.000 đồng.

- L H Nh mang theo số tiền 1.210.000 đồng, sử dụng hết số tiền này vào mục đích đánh bạc. Khi bị bắt, thua 800.000 đồng, bị thu giữ 410.000 đồng là tiền dùng để đánh bạc.

- Ng Th Ch mang theo số tiền 3.200.000 đồng, sử dụng 600.000 đồng vào mục đích đánh bạc. Khi bị bắt đánh thắng 50.000 đồng, nhà cái đưa cho Ch 100.000 đồng nhưng chưa có tiền thối lại, Công an thu giữ 700.000 đồng và 2.500.000 đồng không dùng để đánh bạc. Tổng số tiền Ch sử dụng đánh bạc là 650.000 đồng.

Tổng số tiền của các đối tượng dùng để đánh bạc là 15.410.000 đồng .Trong đó, thu giữ trên chiếu bạc 12.700.000 đồng và 2.710.000 đồng là tiền trong người các đối tượng tham gia đánh bạc.

Tại cơ quan điều tra, P C S, N X C, N V Đ, Đ H TH, N Tr D, Tr Th Nh Th, L H Nh, Ng Th Ch đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai và biên bản hỏi cung phù hợp với chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án.

Ngày 17/6/2020, Cơ quan C sát điều tra Công an thị xã Bến Cát ra Quyết định xử lý vật chứng số 266, 267, 268, 269, 270/QĐ trao trả cho P C S 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu xanh đen; N X C 01 bóp da, 01 (một) điện thoại di động Iphone màu đen; N V Đ 01 (một) giấy chứng minh nhân dân, 01 (một) điện thoại di động Samsung Galaxy J7 màu bạc; Đ H TH 01 (một) điện thoại di động Samsung màu xanh; Tr Th Nh Th 01 (một) điện thoại Samsung J7 màu vàng Gold đây là tài sản cá nhân các bị can không sử dụng vào việc thực hiện hành vi phạm tội.

Bản cáo trạng số 162/CT-VKSBC, ngày 17 tháng 7 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát đã truy tố các bị cáo P C S, N X C, N V Đ, Đ H TH, N Tr D, Tr Th Nh Th, L H Nh, Ng Th Ch về tội “đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, qua phần xét hỏi và tranh tụng công khai đại diện Viện kiểm sát giữa nguy n quan điểm truy tố các bị cáo P C S, N X C, N V Đ, Đ H TH, N Tr D, Tr Th Nh Th, L H Nh, Ng Th Ch về tội “đánh bạc” như nội dung bản Cáo trạng số 162/CT-VKSBC, ngày 17 tháng 7 năm 2020 đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ:

Các điểm i, s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt P C S số tiền từ 30.000.000 đến 35.000.000 đồng.

Xử phạt bị cáo N X C số tiền từ 30.000.000 đến 35.000.000 đồng. Xử phạt Đ H TH số tiền từ 25.000.000 đến 30.000.000 đồng.

Xử phạt N Tr D số tiền từ 20.000.000 đến 25.000.000 đồng.

Xử phạt Tr Th Nh Th số tiền từ 20.000.000 đến 25.000.000 đồng.

Các điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo N V Đ số tiền từ 20.000.000 đến 25.000.000 đồng.

Các điểm i, s, n khoản 1 khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Ng Th Ch số tiền từ 20.000.000 đến 25.000.000 đồng.

Các điểm i, s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo L H Nh mức án từ 08 (tám) – 10 (mười) tháng cải tại không giam giữ và phạt bổ sung 10.000.000 đến 15.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, các bị cáo P C S, N X C, N V Đ, Đ H TH, N Tr D, Tr Th Nh Th, L H Nh, Ng Th Ch đã khai nhận như sau:

P C S cùng với N X C hùn vốn làm cái và sử dụng là 500.000 đồng để đánh bạc, khi công an bắt quả tang, bị cáo chạy thoát, sau đó bị cáo ra đầu thú.

- N X C khai nhận hùn vốn làm cái với P C S và sử dụng 9.000.000 đồng để đánh bạc.

- N V Đ khai nhận sử dụng 250.000 đồng để đánh bạc. Đ có anh trai là Nguyễn Văn Hiệp là liệt sĩ.

- Đ Đ H Tkhai nhận sử dụng 1.000.000 đồng để đánh bạc.

- N Tr D khai nhận sử dụng 500.000 đồng để đánh bạc.

- Tr Th Nh Th khai nhận sử dụng 50.000 đồng để đánh bạc.

- L H Nh khai nhận sử dụng 1.210.000 đồng, đánh bạc trước đó vào ngày 14/02/2020, bị Công an phường Thới Hòa ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 56/QĐ số tiền 1.500.000 đồng về hành vi Đánh bạc, đã chấp hành xong hình phạt ngày 23/2/2020.

- Ng Th Ch khai nhận sử dụng 650.000 đồng để đánh bạc, khi bị bắt bị cáo đang mang thai, hiện tại đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi.

Tại phần tranh luận, các bị cáo P C S, N X C, N V Đ, Đ H TH, N Tr D, Tr Th Nh Th, L H Nh, Ng Th Ch không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, thống nhất với nội dung cáo trạng, quan điểm luận tội và mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

Lời nói sau cùng các bị cáo P C S, N X C, N V Đ, Đ H TH, N Tr D, Tr Th Nh Th, L H Nh, Ng Th Ch mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội sớm về với gia đình làm người công dân có ích cho gia đình và cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ được thẩm tra tại phi n tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại tòa, tr n cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tó tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về xác định hành vi phạm tội của các bị cáo Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo P C S, N X C, N V Đ, Đ H TH, N Tr D, Tr Th Nh Th, L H Nh, Ng Th Ch đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng số 162/CT-VKSBC ngày 17 tháng 7 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát mô tả và truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản phạm tội quả tang cùng các tài liệu, chứng cứ được thu thập có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 11 giờ 40 phút, ngày 15/02/2020, tại vị trí phía sau chuồng gà thuộc lô đất cạnh nhà trọ Hoàng Thi tr n đường D18 thuộc khu phố 6, phường Thới Hòa, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, các bị cáo P C S, N X C, N V Đ, Đ H TH, N Tr D, Tr Th Nh Th, L H Nh và Ng Th Ch có hành vi đánh bạc dưới hình thức bài binh ấn độ thắng thua bằng tiền với tổng số tiền 15.410.000 đồng. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu Tnh tội đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

“Khoản 1, Điều 321 Bộ luật hình sự quy định”: Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật giá trị từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Như vậy: Bản Cáo trạng 162/CT-VKSBC, ngày 17 tháng 7 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát và quan điểm luận tội của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa, kết tội các bị cáo P C S, N X C, N V Đ, Đ H TH, N Tr D, Tr Th Nh Th, L H Nh và Ng Th Ch về tội đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Về tính chất đồg phạm Đây là vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội, không có sự phân công, câu kết chặt chẽ, nên không xem là phạm tội có tổ chức. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử sẽ phân hóa vai trò của từng bị cáo theo số tiền đánh bạc và người làm cái để làm cơ sở định lượng hình phạt cụ thể; Bị cáo P C S và N X C hùn chung vốn làm cái và dùng số tiền là 500.000 đồng và 9.000.000 đồng để đánh bạc nên vai trò cao hơn các bị cáo khác. Vai trò của các bị cáo còn lại được xác định từ cao xuống thấp dựa vào số tiền dùng đánh bạc, cụ thể: Bị cáo L H Nh sử dụng 1.210.000 đồng; bị cáo Đ Đ H Tsử dụng 1.000.000 đồng, bị cáo Ng Th Ch sử dụng 650.000 đồng; bị cáo N Tr D sử dụng 500.000 đồng; N V Đ sử dụng 250.000 đồng và bị cáo Tr Th Nh Th sử dụng 50.000 đồng.

[3] Về tính chất, các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3.1] Về tính chất:

Các bị cáo là những người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi đánh bạc trái phép của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quản lý trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương nên cần phải xét xử thật nghiêm để đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Tnh khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Ch khi phạm tội đang mang thai nên được hưởng theo điểm n khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Đ có anh trai Nguyễn Văn Hiệp là liệt sỹ nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[3.3] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[3.4] Về nhân thân: Bị cáo L H Nh có 01 tiền sự về tội đánh bạc.

[4] Về hình phạt:

Xét bị cáo L H Nh có một tiền sự cầ phải xử lý thật nghiêm. Tuy nhiên, số tiền bị cáo dùng vào việc phạm tội không lớn và có phần hạn chế về việc nhận thức pháp luật do đó Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ theo quy định của Điều 36 và phạt bổ sung một khoản tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Về biện pháp tư pháp xét thấy bị cáo Nhi n đã bị áp dụng hình phạt bổ sung và thu nhập không ổn định nên Hội đồng quyết định không áp dụng biện pháp tư pháp.

Đối với các bị cáo còn lại là P C S, N X C, N V Đ, Đ H TH, N Tr D, Tr Th Nh Th và Ng Th Ch phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra và tại phi n tòa đã Tnh khẩn khai báo ăn năn hối cải đối với hành vị phạm tội của mình nên Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình thức phạt tiền cũng đủ răn đe và giáo dục.

[5] Về xử lý vật chứng:

Xét thấy, 01 bộ bài tây 52 lá, đã qua sử dụng; 01 tấm chiếu, kích thước 1,6m x 02m, đã qua sử dụng; 02 ghế nhựa màu đỏ, đã qua sử dụng các bị cáo dùng vào mục đích phạm tội và không còn giá trị sử dụng nên áp dụng các điểm a, b khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, b khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền bị cáo dùng vào đánh bạc là 15.410.000 đồng, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu nộp ngân sách Nhà Nước.

Tiếp tục hoản thủ số tiền 6.660.000 đồng là số tiền của các bị cáo N X C 400.000 đồng; N V Đ 270.000 đồng; N Tr D 3.190.000 đồng; Tr Th Nh Th 350.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật là phù hợp nên chấp nhận. Đối với mức hình phạt có cơ sở chấp nhận đối với các bị cáo C, Đ, D, Th, Ch và Nhi n. Đối với bị cáo S và T là nặng so với hành vi, tính chất phạm tội do đó Hội đồng xét xử quyết định thấp hơn mức đề nghị của đại diện Viện kiểm Sát.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo P C S, N X C, N V Đ, Đ H TH, N Tr D, Tr Th Nh Th, L H Nh và Ng Th Ch phạm tội “đánh bạc”.

1. Về hình phạt Áp dụng các điểm i, s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt:

Bị cáo P C S số tiền 25.000.000 đồng. Bị cáo N X C số tiền 30.000.000 đồng. Bị cáo Đ H TH số tiền 22.000.000 đồng Bị cáo N Tr D số tiền 20.000.000 đồng Bị cáo Tr Th Nh Th tiền 20.000.000 đồng Áp dụng các điểm i, s, khoản 1 khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo N V Đ số tiền 20.000.000 đồng.

Áp dụng các điểm i, s, n khoản 1 Điều 51 khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Ng Th Ch số tiền 20.000.000 đồng.

Áp dụng các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 36; khoản 1 khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo L H Nh mức án 12 (mươi hai) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ, tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã Ngọc Chánh, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau nhận được Quyết định Thi hành án và bản sao Bản án.

Giao bị cáo L H Nh về Ủy ban nhân dân xã Ngọc Chánh, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đồng, nộp ngân sách Nhà nước.

2. Về xử lý vật chứng Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tây 52 lá, đã qua sử dụng; 01 tấm chiếu, kích thước 1,6m x 02m, đã qua sử dụng; 02 ghế nhựa màu đỏ, đã qua sử dụng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/8/2020 giữa Chi cục Thi hành án thị xã Bến Cát với Công an thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương).

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 15.410.000 đồng (mười lăm triệu bốn trăm mười nghìn đồng) các bị cáo dùng vào việc phạm tội.

Tiếp tục hoãn thủ số tiền 6.600.000 đồng, của các cáo Ng Th Ch:

2.500.000 đồng; Tr Th Nh Th 300.000 đồng; Ng Tr D 3.190.000 đồng; N V Đ 270.000 đồng; N X C 400.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

(Số tiền trên được lưu giữ tại Kho bạc Nhà nước thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương theo giấy nộp tiền vào tài khoản số 3949.0.1046035, ngày 18/6/2020).

3. Về án phí Căn cứ các Điều 135; 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 159/2020/HS-ST ngày 20/08/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:159/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về